GS.TSKH. Vũ Ngọc Hải

Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam



Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục là điểm xuất phát mới và cũng là điểm tựa cơ bản để tiếp tục gợi mở tư duy và cách làm mới đối với sự nghiệp giáo dục. Đây cũng là cánh cửa mở rộng đón nhận, chọn lọc thêm nhiều nền giáo dục tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Điều quan trọng lúc này là sự nghiệp đổi mới căn bản tư duy giáo dục, tư duy về toàn cầu hoá giáo dục. Điều đó đòi hỏi sự nhất trí cao, sự đồng thuận xã hội và ý chí, quyết tâm hội nhập giáo dục quốc tế một cách tích cực của cả xã hội.

1. Sau 25 năm đổi mới giáo dục và nhất là 10 năm thực hiện chiến lược phát triển giáo dục 2001-2020, giáo dục nước ta đã đạt được một số thành tựu cơ bản như:

- Quy mô học sinh, sinh viên tăng, tỷ lệ bỏ học, thất học giảm.

- Cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học của cả ngành giáo dục - đào tạo đã có bước phát triển đáng kể.

- Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục được tăng cường cả về số lượng và chất lượng.

- Giáo dục phổ cập vùng khó khăn và giáo dục dân tộc đã được cải thiện đáng kể.

- Công bằng trong tiếp cận giáo dục và chính sách đảm bảo cho người nghèo được học tập đã hết sức được quan tâm và coi trọng.

- Chất lượng giáo dục nói chung giữ ổn định, ở từng bộ phận có tăng lên.

- Giáo dục và đào tạo đã cung cấp nguồn nhân lực cho nền kinh tế quốc dân, góp phần đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định…

Bên cạnh những thành tựu đạt được đáng kể như trên, giáo dục nước ta hiện còn không ít yếu kém và bất cập:

- Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, thiếu liên thông trong và ngoài nước.

- Chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới và so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn bất cập, chưa gắn với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và đặc thù của các vùng miền và các đối tượng người học.

- Các hiện tượng tiêu cực vẫn còn tồn tại trong nhiều cơ quan quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục.

- Quản lý nhà nước về giáo dục còn nhiều yếu kém cả về đổi mới tư duy quản lý và thực tiễn quản lý.

- Đội ngũ nhà giáo chưa đồng bộ, vừa thừa, vừa thiếu và chất lượng chưa cao.

- Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục còn thiếu thốn và lạc hậu.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” (1), ngành giáo dục nước ta trong thập niên tới cần theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế. Đây là thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội vàng, là bước ngoặt để giáo dục Việt Nam phát triển, sớm đuổi kịp các nền giáo dục tiên tiến hiện đại trên thế giới. Có thể tiếp cận nội hàm của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo ở một số nội dung cơ bản sau:

Một là, chuẩn hoá nền giáo dục

Đổi mới giáo dục theo con đường chuẩn hoá cần có những quyết định quyết liệt đầy bản lĩnh và giải pháp thực hiện cần kiên định và kiên trì, không làm theo kiểu “phong trào”, kiểu “mì ăn liền” và cũng không thể làm theo kiểu “bắt chước, dập khuôn thuần tuý” của các nước có nền giáo dục phát triển. Quản lý giáo dục từ nền kinh tế khép kín, bao cấp với cách quản lý nặng tính chỉ huy sang quản lý giáo dục bằng luật pháp và định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa.

Chuẩn hoá ở đây nhất thiết yêu cầu toàn diện về thầy, trò, nội dung, chương trình, điều kiện dạy và học… và quan trọng hơn cả là cần nhanh chóng chuẩn hoá quản lý giáo dục. Bởi vì có chuẩn hoá được quản lý giáo dục mới tạo ra được tiền đề, điều kiện và cũng là cơ sở để có thể thực hiện được hiện đại hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá trong phát triển giáo dục. Thành công nhiều hay ít đều nằm trong tầm tay của các nhà quản lý giáo dục. Quản lý toàn diện phải chịu trách nhiệm toàn diện. Có nhận thức tốt, ý tưởng tốt không bao giờ tự nó có thể trở thành hiện thực, nếu không có con người thực hiện. Người quản lý giáo dục cần có tầm nhìn và tư duy mới về giáo dục, đồng thời lĩnh vực này cũng cần những con người tâm huyết và tài năng, vì đây là nhân tố cốt lõi để có thể đưa chuẩn hoá giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tư duy khoa học, thực tiễn và đổi mới sẽ tạo ra tầm nhìn sâu rộng và đúng hướng cho giáo dục phát triển.

Hai là, hiện đại hoá nền giáo dục

Thành tựu của khoa học - kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông từ cuối thế kỷ XX và những năm gần đây đã tạo ra cơ hội lớn cho tiến trình hiện đại hoá nền giáo dục. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới vừa là một thách thức, vừa là một cơ hội cho hiện đại hoá giáo dục. Giáo dục nước ta nếu nắm bắt tốt cơ hội thì sẽ tiến rất nhanh, vượt qua được những thách thức, hoặc tiếp nhận hời hợt, bỏ qua cơ hội thì giáo dục sẽ chậm phát triển. Hiện đại hoá giáo dục phải gắn liền với giữ gìn, bảo tồn truyền thống giáo dục của dân tộc. Hiện đại hoá giáo dục cũng không có nghĩa là bắt chước, dập khuôn hoặc mô phỏng mô hình giáo dục của Mỹ, của châu Âu, hoặc của các nước phát triển.

Thực tiễn giáo dục Việt Nam cũng như phát triển giáo dục trên thế giới những năm qua đã chứng minh rằng, một quốc gia có truyền thống văn hoá, giáo dục và độc lập chủ quyền, nếu chỉ bắt chước, tiếp nhận mô phỏng mô hình giáo dục của một nước khác thì sẽ thất bại. Như vậy rõ ràng hiện đại hoá giáo dục không phải là “Mỹ hoá” giáo dục hay “châu Âu hoá” giáo dục. Tức là, hiện đại hoá giáo dục nước ta hàm nghĩa phát huy truyền thống giáo dục Việt Nam với tiếp thu nội dung, hình thức, phương thức giáo dục mới, tiên tiến, hiện đại, mang lại sức sống mới cho nền giáo dục.

Giáo dục Việt Nam hiện nay đang tích cực và chủ động khắc phục những mâu thuẫn và thách thức trong quá trình hiện đại hoá giáo dục. Đó là những mâu thuẫn, thách thức giữa quy mô và chất lượng, giữa cung và cầu giáo dục; giữa cá thể và toàn thể (giáo dục hiện nay chưa đáp ứng được nguyện vọng của mỗi người học cũng như đòi hỏi của cộng đồng), giữa hợp tác và cạnh tranh; thị trường và phúc lợi giáo dục; giữa cục bộ và toàn cầu; lâu dài và trước mắt; tinh thần và vật chất; sự gia tăng nhanh lượng tri thức của loài người và sự giới hạn của giáo dục…

Ba là, xã hội hoá nền giáo dục

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII khẳng định: “Giáo dục-đào tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân”. “Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời… Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ Đảng và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế - xã hội, các gia đình và các cá nhân có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể…”.

Đại hội IX nhấn mạnh xã hội hoá giáo dục là một trong những phương thức quan trọng để đẩy mạnh phát triển giáo dục: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định nâng cao vai trò các đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Như vậy, có thể nói “xã hội hoá giáo dục” là chủ trương nhất quán của Đảng để đẩy mạnh phát triển giáo dục ở nước ta và để thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng, đó là gắn nhà trường, gắn giáo dục với xã hội, giáo dục luôn đáp ứng nhu cầu xã hội.

Bốn là, dân chủ hoá nền giáo dục

Thực hiện dân chủ hoá toàn bộ hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục là bước đi quan trọng để đưa đến những thành tựu mới, tạo ra sức sống mới cho phát triển giáo dục với nhiều sáng kiến, nỗ lực, tâm huyết của các thầy cô giáo, của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý. Có thể nói, thực hiện dân chủ hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực căn bản cho công cuộc đổi mới giáo dục. Dân chủ hoá mọi hoạt động giáo dục sẽ làm cho mọi tiềm năng sáng tạo của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên được phát huy; tính tích cực, chủ động tham gia vào quá trình dạy và học được tăng lên, tạo cho sự nghiệp đổi mới giáo dục ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Dân chủ trong giáo dục được thực hiện trực tiếp và chủ yếu trước hết thông qua sự lãnh đạo và quản lý bằng các đạo luật và các văn bản pháp quy, bằng xây dựng quản lý nhà nước về giáo dục.

Ngành giáo dục tạo điều kiện để thầy, trò và những người đang hoạt động giáo dục tham gia vào quản lý nhà nước về giáo dục thông qua kiểm tra, giám sát các cơ quan quản lý nhà nước và các cán bộ quản lý về giáo dục. Cần nâng cao trách nhiệm pháp lý trong giáo dục giữa các cơ quan quản lý về giáo dục và những người tham gia hoạt động giáo dục trong thực hiện quyền dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong giáo dục, xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, minh bạch và trong sáng. Để đổi mới căn bản nền giáo dục theo hướng dân chủ còn cần tăng cường vai trò của Công đoàn ngành giáo dục và vai trò không thể thiếu của các hiệp hội về giáo dục như Hội Khuyến học, Hội Cựu Giáo chức, hội các trường ngoài công lập… Thông qua các tổ chức này để có được những giám sát, những phản biện xã hội đối với chính sách và cách điều hành, quản lý giáo dục nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp và tạo được tổng lực mạnh mẽ cho phát triển sự nghiệp giáo dục.

Năm là, hội nhập quốc tế giáo dục

Hiện nay, ngành giáo dục đã mở rộng quan hệ theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế về giáo dục với tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, nhất là với các nước có nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Sau khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), giáo dục nước nhà phần nào cũng đã được nâng lên tầm cao mới và đang có chiều hướng phát triển mạnh. Đây là cơ hội và thời cơ lớn để có điều kiện mở rộng thêm quan hệ hợp tác về giáo dục, mở rộng các dịch vụ giáo dục, tranh thủ thêm nhiều nguồn lực cho phát triển giáo dục, trong đó có cả tiền của, công nghệ và kinh nghiệm phát triển giáo dục. Bên cạnh những cơ hội, giáo dục Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn như: cạnh tranh quốc tế về giáo dục đang diễn ra gay gắt, chất xám giáo dục đang bị thu hút theo dòng chảy từ nước ta đến các nước có nền giáo dục phát triển.

Bối cảnh đó đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, các cơ sở giáo dục cần có chiến lược về hợp tác quốc tế giáo dục. Quản lý ngành cần thực sự giao quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục trong hợp tác quốc tế về giáo dục theo hướng phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả giáo dục và xây dựng thương hiệu giáo dục trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc hai bên hoặc nhiều bên cùng có lợi và có bước đi, cách làm hợp lý.

2. Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục là điểm xuất phát mới và cũng là điểm tựa cơ bản để tiếp tục gợi mở tư duy và cách làm mới đối với sự nghiệp giáo dục. Đây cũng là cánh cửa mở rộng đón nhận, chọn lọc thêm nhiều nền giáo dục tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Giáo dục Việt Nam đang đứng trước sự cạnh tranh quốc tế gay gắt. Điều quan trọng lúc này là sự nghiệp đổi mới căn bản tư duy giáo dục, tư duy về toàn cầu hoá giáo dục. Điều đó đòi hỏi sự nhất trí cao, sự đồng thuận xã hội và ý chí, quyết tâm hội nhập giáo dục quốc tế một cách tích cực của cả xã hội.

Hơn lúc nào hết, những người làm giáo dục và các cơ sở giáo dục cần nâng cao tầm nhận thức và hiểu biết luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế về giáo dục, biết cách ngăn ngừa và xử lý các tiêu cực trong giáo dục do mặt trái của tiến trình hội nhập quốc tế về giáo dục mang đến. Chủ động và tích cực hơn nữa trong mở cửa hội nhập quốc tế về giáo dục trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả giáo dục trong nước, tăng uy tín dần tiến tới xây dựng thương hiệu giáo dục Việt Nam. Đây là cơ hội vàng để giáo dục Việt Nam tiếp nhận chọn lọc những thành tựu văn minh của thế giới và cũng là thời cơ để giáo dục Việt Nam sáng tạo ra trí tuệ mới trong đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục của mình. Muốn vậy trước mắt cần thực hiện một số nhiệm vụ như sau:

- Đẩy mạnh đổi mới quản lý trong toàn ngành giáo dục và đào tạo, bắt đầu từ lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục ở tất cả các cấp đến từng cán bộ quản lý tại các cơ sở giáo dục.

- Phân cấp quản lý triệt để và hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương trong quản lý giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm nhằm đảm bảo tính thống nhất và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục; tăng cường tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục.

- Tập trung đặc biệt vào việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đây được coi là nhiệm vụ then chốt của ngành.

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo.

- Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt, có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục.

- Tăng cường gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo với sử dụng nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu sâu những lý luận cơ bản về khoa học giáo dục và các luận cứ khoa học có ý nghĩa chi phối đến sự phát triển toàn diện của sự nghiệp giáo dục – đào tạo trong nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hoá.

- Tiếp tục quan tâm hơn nữa đến phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng thời khuyến khích và tạo động lực cho các cơ sở giáo dục có tiềm năng và ngành đào tạo mũi nhọn có bước phát triển mới.

- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế sâu, rộng thiết thực trong giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Giải pháp đột phá để phát triển giáo dục nhanh và chất lượng bền vững

Trong đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục, cần có nhận thức mới về phát triển giáo dục theo hướng đảm bảo chất lượng của phát triển giáo dục, không chấp nhận phát triển giáo dục bằng bất cứ giá nào, không làm giáo dục theo kiểu “phong trào”. Phát triển giáo dục nhanh và bền vững là yêu cầu cấp bách, nhưng cũng là yêu cầu lâu dài có ý nghĩa sống còn với giáo dục Việt Nam. Giáo dục Việt Nam tuy đã đạt được rất nhiều thành tựu, đã khởi sắc thực sự, song giáo dục Việt Nam vẫn là nền giáo dục của một nước nghèo, một nước đang phát triển.

Để giáo dục phát triển nhanh, có thể ngang tầm với nền giáo của các nước phát triển, phát triển nhanh và bền vững, không chạy theo “tốc độ thành tích”, không chạy theo số lượng, mở rộng quy mô đơn thuần; coi trọng nâng cao không ngừng chất lượng giáo dục để ngày càng nâng cao vị thế giáo dục của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Phát triển giáo dục nhanh, bền vững và hiệu quả là tạo sức cạnh tranh cho kinh tế - xã hội, vì thực chất công cuộc cạnh tranh kinh tế - xã hội giữa các nước hiện nay là cạnh tranh về giáo dục. Phát triển nhanh và bền vững về giáo dục là góp phần đưa con người vào vị trí trung tâm của tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Giáo dục tạo cơ hội giúp cho mọi người phát huy được tài năng, trí tuệ, sở trường, năng lực của mình, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của quá trình đổi mới.

Chất lượng cuộc sống của mỗi người ngày càng được nâng cao. Các chính sách xã hội về giáo dục được thực hiện theo tinh thần: Nhà nước ngày một tăng nguồn lực cho giáo dục, thực hiện nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, diện chính sách và người nghèo… ngày càng được hưởng nhiều chính ưu đãi về giáo dục, đồng thời phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn lực vật chất trong và ngoài nước của nhân dân, Việt kiều và các tổ chức quốc tế. Xác định điều kiện mới, động lực mới để thúc đẩy sự phát triển của bản thân hệ thống giáo dục. Sự tương quan phát triển giáo dục với các lĩnh vực khác trong phát triển kinh tế - xã hội, trong công cuộc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Xây dựng nền giáo dục dân tộc, chất lượng tiên tiến, hiện đại để làm nền tảng cho nền kinh tế mới đang ngày một phát triển.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định một trong các khâu đột phá chiến lược là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ”(2). Cạnh tranh phát triển kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay, nói cho cùng bản chất là cạnh tranh sự phát triển giáo dục. Giáo dục phát triển sẽ đào tạo ra nguồn nhân lực mới, nguồn nhân lực chất lượng cao.

Để thực hiện tốt được những nhiệm vụ nêu trên và nhất là muốn đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nước nhà trong thập niên tới cần thực hiện các giải pháp đột phá:

Thứ nhất, đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về giáo dục trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính giáo dục. Thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục; quản lý theo pháp quyền trên cơ sở một hệ thống pháp luật giáo dục đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và triệt để phân cấp quản lý giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.

Tăng hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục trong toàn ngành ở tất cả các cấp quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục; chuyển dần quản lý nhà nước về giáo dục nặng về hành chính, sang quản lý chất lượng và từ quản lý nhà nước theo cách kiểm soát sang giám sát mọi hoạt động giáo dục. Nâng cao vai trò các tổ chức xã hội nghề nghiệp giáo dục Hội Cựu Giáo chức, Hội Khuyến học, liên hiệp hội các trường ngoài công lập…

Thứ hai, hoàn thiện giáo dục quốc dân theo hướng mở, hiện đại và liên thông

Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở và liên thông. Chuẩn hoá, hiện đại hoá, đa dạng hoá và hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Coi trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao ở tất cả các cấp trình độ. Xây dựng một hệ thống giáo dục đa dạng về phương thức học tập, đảm bảo “ai cũng được học hành”, được học theo nguyện vọng của chính mình và được học suốt đời trong xã hội học tập. Một hệ thống giáo dục được chuẩn hoá với những tiêu chí dân tộc, tiên tiến, hiện đại đảm bảo sự liên thông trong và ngoài nước trên cơ sở chuẩn hoá với các yếu tố đảm bảo chất lượng trong từng cấp học và trình độ đào tạo. Hệ thống giáo dục mới, chất lượng cao sẽ là tiền đề cho phát triển khoa học, công nghệ, khai thác nhiều nhất và vận dụng có hiệu quả nguồn tri thức của dân tộc, của nhân loại và làm nền tảng cho công cuộc xây dựng kinh tế tri thức ở nước ta.

Thứ ba, xây dựng, phát triển nhanh đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi

Nguồn lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là vốn quý nhất, là động lực, là nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giỏi là chìa khoá, là nhân tố trung tâm cho sự nghiệp giáo dục phát triển. Suy đến cùng, chất lượng nền giáo dục nước ta cao hay thấp phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ thầy, cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do vậy, phải đặt trọng tâm và bước chuyển biến chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; mở rộng, phát huy dân chủ và thực hiện đồng bộ các khâu: phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, luân chuyển, bố trí sử dụng, thực hiện chính sách đãi ngộ tương xứng. Thông qua yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của nhà giáo và năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ quản lý giáo dục, cần phải đẩy mạnh việc thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý.

Tóm lại, qua thực tiễn, chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế là thực sự cần thiết. Đó là quá trình nghiên cứu tìm tòi, phát hiện và sáng tạo, kinh nghiệm 25 năm qua của ngành giáo dục – đào tạo. Phải nhìn vào những sự thật yếu kém, bất cập mà kiên quyết loại bỏ những cách nghĩ, cách làm ôm đồm không phù hợp còn rơi rớt lại của thời bao cấp. Khi hoạch định và chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục, nhất thiết phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến đóng góp, nhất là những vấn đề phát triển mới do thực tiễn giáo dục đòi hỏi.

Đổi mới căn bản giáo dục toàn diện ở nước ta không những là yêu cầu khách quan, mà còn là nhiệm vụ mang tính sống còn của ngành giáo dục. Tuy nhiên, cần làm từng bước, không nôn nóng, không làm theo kiểu “phong trào”. Ngược lại, phải thận trọng, làm có nguyên tắc và có nghiên cứu kỹ càng. Cần đổi mới đồng bộ, nhưng trước hết cần đổi mới từ trên xuống dưới và đổi mới từng khâu, từng mặt đi đến đổi mới căn bản toàn diện. Trong quá trình tiếp tục đổi mới căn bản giáo dục toàn diện phải độc lập, tự chủ, luôn xuất phát từ thực tiễn giáo dục Việt Nam, đồng thời luôn tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện được sự nghiệp đổi mới, căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế thực sự là bước đột phá, bước ngoặt để nền giáo dục nước ta hoàn toàn có thể sánh vai và cạnh tranh được với tất cả các nền giáo dục của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là sự đóng góp quan trọng của ngành giáo dục trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

----------------------

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H, 2011, t.130-131, t.106.