Chuyển
đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc
cách mạng Công nghiệp 4.0 hiện nay. Trên thế
giới nhiều quốc gia đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi
số như tại Anh, Úc, Đan Mạch, Estonia…Nội dung chuyển đổi số rất rộng và đa
dạng nhưng có chung một số nội dung chính gồm chính phủ số (như dịch vụ công
trực tuyến, dữ liệu mở), kinh tế số (như tài chính số, thương mại điện tử), xã
hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa) và chuyển đổi số trong các ngành trọng
điểm (như nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông). Trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo (GDĐT) nói riêng cũng
không thể nằm ngoài xu thế chung của thế giới và phải thực hiện rất khẩn trương
nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội mà cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 mang lại.
Bài viết phân tích một số nội dung cơ bản của chuyển đổi số trong GDĐT, các yếu
tố đảm bảo chuyển đổi số thành công, thực trạng hiện nay, kết quả đạt được và
tồn tại, khó khăn, từ đó đề xuất một số giải pháp định hướng trong giai đoạn
tới.
Nội
dung cơ bản của chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo
Trong
lĩnh vực GDĐT, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới GDĐT theo hướng giảm thuyết
giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng
tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo
ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ IoT,
Big Data, AI, SMAC (mạng xã hội - di động - phân tích dữ liệu lớn - điện toán
đám mây) đang hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Theo đó, nhiều mô hình giáo
dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng CNTT; hỗ trợ đắc lực
việc cá nhân hóa học tập (mỗi người học một giáo trình và một phương pháp học
tập riêng không giống với người khác, việc này do các hệ thống CNTT thực hiện
tự động); làm cho việc truy cập kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng
được nhanh chóng, dễ dàng; giúp việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo
viên, học sinh gần như tức thời.
Chuyển
đổi số trong GDĐT tập trung vào hai nội dung chủ đạo là chuyển đổi số trong
quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên
cứu khoa học (NCKH). Trong quản lý giáo dục bao gồm số hóa thông tin quản lý,
tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) lớn liên thông, triển khai các dịch
vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 (AI, blockchain, phân tích dữ
liệu, ..) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định trong ngành GDĐT
một cách nhanh chóng, chính xác. Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm số hóa
học liệu (sách giáo khoa điện tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-learning,
ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm), thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ
thống đào tạo trực tuyến, xây dựng các trường đại học ảo (cyber university).
Các điều
kiện đảm bảo cho chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo
Trong
GDĐT với khoảng 24 triệu giáo viên, học sinh, sinh viên, để đảm bảo thành công
chuyển đổi số trước tiên cần phải tuyên truyền, thống nhất, thông suốt về nhận
thức trong toàn ngành, đến từng nhà trường, mỗi cá nhân. Nhận định chuyển đổi
số là xu thế tất yếu của ngành, diễn ra với tốc độ rất nhanh, do đó cần có sự
chuẩn bị, đầu tư xứng tầm, tạo sức mạnh cộng hưởng và quyết tâm cao.
Cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý
phải được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho chuyển đổi số trong
toàn ngành. Đó là các chính sách liên quan đến học liệu như sở hữu trí tuệ, bản
quyền tác giả; liên quan đến chất lượng việc dạy học trên môi trường mạng như
an toàn thông tin mạng; liên quan đến chính trị, tư tưởng, đạo đức người dạy,
người học như bảo vệ thông tin cá nhân, an ninh thông tin trên môi trường mạng;
và các quy định liên quan đến điều kiện tổ chức dạy - học trên mạng, kiểm định
chất lượng, tính pháp lý và công nhận kết quả khi dạy - học trực tuyến.
Nền tảng
hạ tầng CNTT-VT, cơ sở vật chất cơ bản phải được trang bị đồng bộ trong toàn
ngành giáo dục đảm bảo việc quản lý, dạy - học có thể được thực hiện một cách
bình đẳng giữa các địa phương, nhà trường có điều kiện hoàn cảnh kinh tế khác
nhau; đảm bảo môi trường mạng thông suốt, ổn định, an toàn thông tin. Thực hiện
việc này cần huy động được các nguồn lực xã hội chung tay hỗ trợ trang thiết bị
đầu cuối và tham gia cung cấp các hệ thống, giải pháp đáp ứng yêu cầu chuyển
đổi số.
Cuối
cùng cần bồi dưỡng được đội ngũ nhân lực (cán bộ quản lý, giáo viên, giảng
viên, học sinh sinh viên) có kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Trước hết là kỹ năng sử dụng CNTT, kỹ năng an toàn thông tin, kỹ năng khai
thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc dạy - học.
Thực
trạng chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo hiện
nay ở nước ta
Đến nay,
toàn ngành giáo dục đã chủ trương, xác định ứng dụng CNTT là 1 trong 9 nhóm
nhiệm vụ trọng tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 29 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện GDĐT. Thủ tướng Chính phủ cũng đã
ban hành Đề án tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý giáo dục, hỗ trợ đổi mới
dạy - học, nghiên cứu khoa học triển khai trong toàn ngành2. Hàng loạt chính
sách thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục được ban hành, dần hoàn thiện hành lang
pháp lý như các quy định ứng dụng CNTT trong quản lý, tổ chức đào tạo qua mạng,
quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học, quy định quản lý, vận hành sử dụng hệ
thống CSDL toàn ngành, mô hình ứng dụng CNTT trường phổ thông, chuẩn dữ liệu
kết nối; hướng dẫn nhiệm vụ CNNT cho khối đại học, phổ thông hàng năm và nhiều
văn bản chỉ đạo điều hành khác.
Trong
quản lý giáo dục, toàn ngành đã triển khai số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu dùng
chung từ Trung ương đến 63 sở GDĐT, 710 phòng GDĐT và khoảng 53.000 cơ sở giáo
dục. Hiện nay đã số hóa và định danh dữ liệu của khoảng 53.000 trường học, 1,4
triệu giáo viên, 23 triệu học sinh. Cơ sở dữ liệu này vừa qua đã hỗ trợ đắc lực
công tác tuyển sinh và thống kê, báo cáo trong toàn ngành; giúp các cấp quản lý
ban hành chính sách quản lý có hiệu quả, vừa qua đã góp phần giải quyết vấn đề
thừa thiếu giáo viên ở các nhà trường theo từng địa phương, môn học. Khối phổ
thông khoảng 82% các trường sử dụng phần mềm quản lý trường học, sổ điểm điện
tử, học bạ điện tử và hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều sử dụng phần mềm
quản trị nhà trường. Hệ thống quản lý hành chính điện tử kết nối 63 sở GDĐT và
hơn 300 trường đại học, cao đẳng trên cả nước với Bộ GDĐT hoạt động thông suốt,
ổn định, phát huy hiệu quả tích cực.
Về dạy -
học, giáo viên toàn ngành được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ học liệu vào
kho học liệu số toàn ngành; đóng góp lên Hệ tri thức Việt số hóa gần 5.000 bài
giảng điện tử e-learning có chất lượng, kho luận văn tiến sĩ với gần 7.000 luận
văn, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi…góp phần xây dựng xã
hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời.
Về nhân
lực số, ở bậc phổ thông, thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, môn Tin
học sẽ được đưa vào giảng dạy bắt buộc ngay từ lớp 3; giáo dục STEM được lồng
ghép trong các môn học, gắn việc học của học sinh thông qua các hoạt động ứng
dụng công nghệ để giải quyết các bài toán và hiện tượng trong cuộc sống. Trong
giáo dục đại học, triển khai cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực CNTT, qua đó giúp
các cơ sở đào tạo gia tăng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế
để huy động các nguồn lực của xã hội tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực
CNTT, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp và nhu cầu
của xã hội.
Tuy vậy,
chuyển đổi số ngành giáo dục đào tạo hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại
cần tiếp tục được khắc phục, hoàn thiện cụ thể như sau:
- Hạ
tầng mạng, trang thiết bị CNTT (như máy tính, camera, máy in, máy quyét), đường
truyền, dịch vụ Internet cho nhà trường, giáo viên, học sinh - đặc biệt ở các
vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp
ứng yêu cầu cho chuyển đổi số (cả về quản lý giáo dục và dạy - học). Đây cũng
là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội học tập, tiếp cận kiến
thức giữa học sinh sinh viên ở các vùng miền, các nhà trường.
- Số
hóa, xây dựng, cập nhật học liệu số, thẩm định, chia sẻ học liệu số đòi hỏi sự
đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý và nhân lực triển khai) cũng như
tài chính để đảm bảo kho học liệu số đầy đủ, đạt chất lượng, đáp ứng yêu cầu
học tập, nghiên cứu, tham khảo của học sinh sinh viên ở các cấp học, ngành học,
môn học. Vì vậy hiện nay vấn đề xây dựng học liệu số (như sách điện tử, thư
viện điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài giảng điện tử, phần mềm học
điện tử, phần mềm ứng dụng mô phỏng) còn phát triển tự phát, chưa đi vào nề nếp
và thành hệ thống, khó kiểm soát chất lượng và nội dung học tập. Kéo theo đó là
hệ thống giải pháp học tập VLE/LMS có tính tương tác cao (khác với các hệ thống
họp trực tuyến) cũng triển khai tự phát, thiếu sự đồng bộ và chia sẻ giữa các
nhà trường dẫn đến lãng phí chung.
- Thu
thập, chia sẻ, khai thác dữ liệu quản lý giáo dục và học liệu số cần hành lang
pháp lý chung phù hợp với các quy định về bản quyền tác giả, sở hữu trí tuệ, an
ninh thông tin, giao dịch điện tử và luật chia sẻ cung cấp thông tin, cụ thể
như: Quy định danh mục các thông tin thuộc diện bắt buộc khai báo, nhập liệu -
phân biệt với thông tin cá nhân riêng tư thuộc quyền cá nhân; quy định quyền
tác giả cho các bài giảng điện tử (trường hợp nào được sử dụng, điều kiện gì,
sử dụng toàn bộ hay một phần); quy định khai thác cơ sở dữ liệu, kho học liệu
số (những ai được quyền khai thác, khai thác gì, mức độ đến đâu, điều kiện gì,
ai thẩm định, ai cho phép); quy định tính pháp lý của hồ sơ điện tử nói chung
và sổ điểm, học bạ điện tử nói riêng (đặc biệt trong trường hợp chuyển cấp,
chuyển trường ở phạm vi toàn quốc). Chỉ khi các nút thắt này được tháo gỡ mới
thúc đẩy phát triển được hệ thống dữ liệu số, học liệu số đủ lớn (gồm cả dữ
liệu mở), đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia nói chung và giáo dục đào tạo
nói riêng. Hiện tượng cục bộ về dữ liệu còn tồn tại ở không ít các địa phương,
nhà trường.
- Trên
cơ sở quy định pháp lý chung ở trên, cần hoàn thiện quy định chuyên ngành giáo
dục, cụ thể như: Quy định chương trình học trực tuyến, thời lượng học, kiểm tra
đánh giá trực tuyến, kiểm định chất lượng học trực tuyến, công nhận kết quả học
trực tuyến (khác với học truyền thống); quy định điều kiện tổ chức lớp học,
trường học trên môi trường mạng (kể cả ngắn hạn và dài hạn).
Một
số giải pháp chung thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo
dục đào tạo
Từ việc
phân tích các yếu tố tác động, các khó khăn hạn chế ở trên, trong thời gian
tới, để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, không bỏ lỡ cơ hội mà
cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 mang lại, ngành GDĐT cần tập trung triển
khai một số nội dung cụ thể sau:
- Phổ
biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm, thông suốt về tư tưởng
và quyết tâm hợp lực thực hiện chuyển đổi số trong toàn ngành giáo dục, đến
từng địa phương, nhà trường, giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý; xây dựng
văn hoá số trong ngành giáo dục.
- Tiếp
tục đẩy mạnh triển khai Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số trong toàn
ngành. Trong đó chú trọng triển khai hoàn thiện hệ thống CSDL toàn ngành GDĐT
(giáo dục phổ thông và giáo dục đại học) kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu
từ Trung ương đến địa phương, nhà trường và đồng bộ với các CSDL quốc gia, CSDL
chuyên ngành khác góp phần hình thành CSDL mở quốc gia; đẩy mạnh các dịch vụ
công trực tuyến phục vụ người dân; thực hiện số hóa triệt để, sử dụng văn bản
điện tử, sổ sách học bạ sổ điểm điện tử thay thế văn bản, tài liệu giấy; hoạt
động chỉ đạo, điều hành, giao dịch, họp, tập huấn được thực hiện chủ yếu trên
môi trường mạng.
- Tăng
cường chất lượng công tác dự báo (nhờ công nghệ như Big data, AI, Blockchain),
hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng đi trước một bước. Trong đó chú trọng
chính sách hoàn thiện CSDL quản lý giáo dục, theo các quy định về chia sẻ, khai
thác dữ liệu; hoàn thiện hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển hình thức dạy -
học trực tuyến qua mạng; chính sách quản lý các khóa học trực tuyến đảm bảo chất
lượng thông qua các quy định về điều kiện mở trường mở lớp, thẩm định cấp phép
nội dung, kèm theo chế tài phù hợp, tránh tình trạng mất kiểm soát, bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người học.
- Hoàn
thiện cơ sở hạ tầng mạng đồng bộ, thiết bị công nghệ thông tin thiết thực phục
vụ dạy - học, tạo cơ hội học tập bình đẳng giữa các vùng miền có điều kiện kinh
tế xã hội khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và huy động nguồn lực xã
hội hóa cùng tham gia thực hiện.
- Thúc
đẩy phát triển học liệu số (phục vụ dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo,
nghiên cứu khoa học) ở tất cả các cấp học, ngành học, môn học gắn với việc thẩm
định nội dung, kết nối, chia sẻ học liệu giữa các địa phương, nhà trường; hình
thành kho học liệu số, học liệu mở dùng chung toàn ngành, liên kết với quốc tế,
đáp ứng nhu cầu tự học, học tập suốt đời, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng
miền; tiếp tục đổi mới cách dạy và học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, khuyến
khích và hỗ trợ áp dụng các mô hình giáo dục đào tạo mới dựa trên các nền tảng
số.
- Triển
khai mạng xã hội giáo dục có sự kiểm soát và định hướng thống nhất, tạo môi
trường số kết nối, chia sẻ giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình,
giáo viên giảng viên, học sinh sinh viên; phát triển các khóa học trực tuyến
mở, hình thành mạng học tập mở của người Việt Nam; triển khai hệ thống học tập
trực tuyến dùng chung toàn ngành phục vụ công tác bồi dưỡng giáo viên, hỗ trợ
dạy học cho các vùng khó khăn.
- Đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo kiến thức, kỹ năng CNTT, an
toàn thông tin cần thiết để tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu
chuyển đổi số.
Cuối
cùng, ngành GDĐT đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số Quốc
gia nói chung. Theo đó, ngành GDĐT cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ giải
pháp cụ thể gồm: (1) Thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chỉ số thành phần
nguồn nhân lực Việt Nam (HCI) theo phương pháp đánh giá chính phủ điện tử của
Liên Hợp Quốc; (2) Lồng ghép nội dung giáo dục về chuyển đổi số quốc gia, đặc
biệt là những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi
với những yêu cầu của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 đưa vào giảng dạy
trong nhà trường một cách phù hợp; (3) Thực hiện phổ cập tin học (như phổ cập
xóa mù chữ), triển khai dạy tin học cơ bản, làm quen với tin học cho học sinh ở
tất cả các cấp học, ngay từ khi đến trường, bổ túc kiến thức cho người dân,
toàn xã hội, đặc biệt qua các trung tâm giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục
thường xuyên; (4) Tăng cường đào tạo nhân lực CNTT chuyên nghiệp theo hướng ứng
dụng, phục vụ yêu cầu chuyển đổi số ở các ngành nghề khác nhau, lấy đánh giá
của doanh nghiệp làm thước đo cho chất lượng đào tạo của các trường đại học
trong lĩnh vực CNTT.
Trên đây
bài viết đã phân tích một số nội dung liên quan đến chuyển đổi số trong lĩnh
vực GDĐT gồm nội dung chuyển đổi số, các điều kiện đảm bảo sự chuyển đổi thành
công, thực trạng kết quả đạt được và các tồn tại, nguyên nhân hạn chế. Trên cơ
sở đó, bài viết đã đề xuất một số giải pháp chung để thúc đẩy chuyển đổi số trong
GDĐT nói riêng đồng thời tham gia vào tiến trình chuyển đổi số Quốc gia nói
chung. Mỗi giải pháp đề xuất cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể, xây dựng kế
hoạch lộ trình chi tiết, phân công tổ chức thực hiện hợp lý, đánh giá thử
nghiệm đảm bảo hiệu quả khi triển khai phù hợp với thực tế đa dạng từng nơi và
từng thời điểm hoàn cảnh khác nhau.
_______________
Tài
liệu tham khảo
1. Nghị
quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách
chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4.
2. Nghị
quyết của Chính phủ số 44/NQ-CP ngày 9/6/2014 ban hành Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện
GDĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN
và hội nhập quốc tế; số 26/NQ-CP ngày 15/4/2015 ban hành Chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế; số 36a/ NQ-CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử; số 17/NQ-CP ngày
7/3/2019 về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử
giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025.
3. Chỉ
thị 16 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng
Công nghiệp lần thứ 4.
4. Quyết
định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 phê duyệt Đề án "Tăng cường ứng dụng
CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy-học, NCKH góp phần nâng cao chất
lượng GDĐT giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2925".
4. Hồ sợ
dự thảo Đề án chuyển đổi số Quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ.
6. Chỉ
thị, báo cáo tổng kết năm học và hướng dẫn nhiệm vụ CNTT các năm học của Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
7. Các
tài liệu khác tham khảo trên Internet.
Nguồn: Tạp chí TT&TT