Nhân cách của cán bộ lãnh đạo là tổng
hòa các yếu tố về phẩm chất và năng lực, nhất là yêu cầu về đạo đức. Việc xây
dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một nhiệm vụ thường xuyên, cần
thiết, có ý nghĩa quan trọng của công tác cán bộ.
YÊU CẦU CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN
CÁCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
Xây dựng và rèn luyện nhân cách người cán bộ
lãnh đạo là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong suốt cuộc đời, sự
nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần quan điểm: “Cán bộ là tiền vốn của
đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán
bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là
lỗ vốn”(1), việc xây dựng và rèn luyện nhân cách cán bộ lãnh đạo là một trong
những nội dung quan trọng của công tác cán bộ, góp phần để mỗi người hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao phó, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
Nhân cách là những phẩm chất và năng lực của
con người, là tổng hòa của tài và đức. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên nói
chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng phải có đủ tài và đức - đó là điều kiện cần và
đủ; trong đó, đạo đức được coi là gốc của nhân cách và tài giữ vai trò quan
trọng: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn… chính trị là đức, chuyên môn
là tài. Có tài mà không có đức thì hỏng”(2). Những yêu cầu của Hồ Chí Minh về
nhân cách của người cán bộ lãnh đạo thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt trong
tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Ở mỗi giai đoạn nhất định, yêu cầu về năng lực và phẩm chất đạo
đức của người cán bộ lãnh đạo lại có những yêu cầu cụ thể, song tựu trung lại
thì đó phải là những người luôn nỗ lực “học để làm việc, làm người làm cán bộ.
Học để phục sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và
nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”(3).
Người cán bộ lãnh đạo phải có tài, cụ thể là: 1) Có tư duy lý
luận, “lý luận đi đôi với thực tiễn”(4), góp phần vào việc xây dựng,
triển khai thực hiện và sửa đổi, bổ sung các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp thực tiễn. 2) Có năng
lực chuyên môn, vận dụng kiến thức chuyên môn phục vụ công
tác lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả. 3) Có năng lực lãnh đạo,
quản lý; dự báo - định hướng phát triển; tổng kết thực tiễn. 4) Có
kiến thức xã hội; sử dụng tốt công nghệ thông tin... Muốn có được
năng lực đó, người cán bộ lãnh đạo phải nỗ lực học tập, rèn luyện,
vì cách mạng cũng là một nghề, làm nghề gì cũng phải học.
Đồng thời, người cán bộ lãnh đạo phải có đức, cụ thể là: 1) Phải
có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách
mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin; kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; luôn đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân
lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. 2) Gương mẫu đi
đầu, dấn thân đảm nhận những công việc khó; dám nghĩ, dám làm,
quyết tâm vượt mọi khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo và phải có tài
dùng người “tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ,
ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy”(5). 3) Luôn thực
hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; thống nhất giữa nói và
làm, nói ít làm nhiều; gắn bó với nhân dân, vì nhân dân tận tâm, tận
lực phục vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người “công bộc” trung
thành của nhân dân...
|
Những yêu cầu cần và đủ về tài và đức Hồ Chí
Minh nêu ra góp phần xây dựng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, đảm bảo uy tín
và khả năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng thực hiện sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Không ít lần nhấn mạnh rằng, chức vụ - quyền lực của mỗi cán bộ
lãnh đạo là do nhân dân tín nhiệm, ủy thác, nên theo Hồ Chí Minh: cùng với việc
Đảng cầm quyền, được giao đảm nhiệm các vị trí trọng yếu trong cơ quan Đảng và
Nhà nước, khi thực thi các quyền lực đó - cán bộ lãnh đạo là những người đại
diện cho nhân dân, là “công bộc của dân”, chứ không phải là “quan cách mạng”.
Do đó, trong mọi thời điểm, thời chiến hay thời bình, để hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ, người cán bộ lãnh đạo không chỉ phải có bản lĩnh, kiên định thực hiện
mục tiêu cách mạng mà còn phải luôn học hỏi và lắng nghe; dám nghĩ, dám làm và
dám ra quyết định ở những thời điểm khó khăn, có tính bước ngoặt; gần gũi, chân
thành, tin tưởng đồng chí, đồng bào, v.v.. để quy tụ được mọi người, nhân nguồn
sức mạnh của khối đoàn kết trong Đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị.
Hồ Chí Minh từng nói, “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”, cho nên, Người không chỉ
yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người cán bộ lãnh đạo nói riêng
phải luyện tài: làm giàu tri thức, bồi dưỡng tư duy, cách nhìn
tổng thể, biện chứng, chủ động, sáng tạo... mà còn phải rèn luyện đạo
đức cách mạng, “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”. Từ nhận thức sâu sắc rằng, thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ,
thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, những yêu cầu của Hồ Chí Minh về
việc cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên, liên tục rèn luyện nhân cách; chủ động
phòng và kiên quyết chống lại tư tưởng ỷ lại, lối làm việc dựa trên kinh
nghiệm, thiếu tư duy khoa học, sáng tạo cùng những thói hư tật xấu, những biểu
hiện của chủ nghĩa cá nhân, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi, “lấy cái đẹp
dẹp cái xấu” càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Theo Người, các cơ quan
Đảng, Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là “công bộc của dân, nghĩa
là để gánh vác công việc chung cho dân”, cho nên “việc gì lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta(6). Trên tinh thần đó, muốn lãnh đạo đúng,
hiệu quả - người cán bộ lãnh đạo phải gần dân, hiểu dân, vì dân, xứng đáng là
công bộc của dân; phải thật thận trọng, phải giữ gìn trước những cám dỗ của
quyền lực và là một tấm gương mẫu mực về nhân cách người lãnh đạo luôn “biết
làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”(7).
Hồ Chí Minh không chỉ đặc biệt chú trọng công
tác cán bộ; nêu rõ, yêu cầu và chỉ ra biện pháp để mỗi người cán bộ lãnh đạo
rèn đức, luyện tài, vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng với trọng trách Đảng và Nhà
nước giao phó, mà Người còn là một tấm gương mẫu mực, trong sáng về nhân cách
người lãnh đạo tận tâm, tận lực, suốt đời phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do
của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Ở Người là sự thống nhất giữa nói và
làm, giữa giáo dục đạo đức và nêu gương đạo đức, nhất quán giữa công việc và
đời tư, giữa đạo đức một vĩ nhân và đạo đức đời thường. Tâm huyết và trăn
trở với công tác cán bộ, trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn dành một phần để nói
về Đảng, về sự phấn đấu, tu dưỡng của người cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ
lãnh đạo nói riêng: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(8).
Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất
cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi.
Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”.
Chủ tịch HỒ CHÍ MINH
|
XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO,
NGƯỜI ĐẦY TỚ THẬT TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
sâu rộng, những yêu cầu về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo theo quan điểm
của Hồ Chí Minh càng trở nên cần thiết và có ý nghĩa. Thực tế nhiệm vụ cách
mạng, những quy luật vận động của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước đã hoàn toàn khác với những quy luật vận động của thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền. Con đường để nhân dân Việt Nam đi đến độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở lối làm việc chủ quan và kinh
nghiệm. Vì vậy, với vị thế lãnh đạo, người cán bộ cần phải bồi dưỡng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, bao gồm cả năng lực trí tuệ, khả năng quản lý, điều
hành, tổ chức thực hiện; phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa. Đó
chính là tiêu chí, là thước đo, góp phần đánh giá hiệu quả công tác của người
cán bộ lãnh đạo.
Trong diễn văn khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XII, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư
tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn
rèn luyện, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao...”. Song vẫn còn “một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp,
năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa thật sự gắn
bó mật thiết với nhân dân; vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích
nhóm...”. Hơn bao giờ hết, nhằm đáp ứng yêu cầu và tình hình, nhiệm vụ của thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây dựng và rèn luyện nhân cách
của cán bộ lãnh đạo theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên
cần thiết, cấp bách. Do đó, để khắc phục những tồn tại trên; thấm nhuần những
chỉ dẫn của Hồ Chí Minh và thiết thực đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh theo chủ đề năm 2018 về “Xây dựng phong
cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trong công
tác cán bộ cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, cấp ủy các cấp chú trọng việc rèn luyện nhân cách của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo trên cơ sở tiêu chí, tiêu chuẩn của từng chức danh, chức vụ cán bộ
lãnh đạo được cấp có thẩm quyền ban hành. Từ đó, tiếp tục lựa chọn, đánh giá,
đưa vào quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt cán bộ lãnh đạo đúng theo năng
lực và phẩm chất đạo đức. Tổ chức thực hiện tốt việc bồi dưỡng, luân chuyển cán
bộ lãnh đạo theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 và Nghị quyết
số 26-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”; kiên quyết khắc phục “tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội,...
chậm được ngăn chặn và đẩy lùi” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra.
Hai là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo
đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các cấp; gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ”. Tạo điều kiện và gắn việc giáo dục rèn luyện của tập
thể với phát huy tính chủ động tự giác trong rèn luyện và tu dưỡng của mỗi cá
nhân cán bộ lãnh đạo.
Ba là, nêu
cao tính tiền phong gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của người cán bộ lãnh
đạo trong xây dựng kế hoạch và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ;
giữa nỗ lực nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý
với rèn luyện phong cách, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sáng tạo, gần
dân, trọng dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; giữa nêu gương đạo đức, lối
sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với phòng và chống quan
liêu, lãng phí, tham nhũng, lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân…; giữa tự phê
bình và phê bình với nghiêm túc khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó tại mỗi địa phương, cơ quan,
đơn vị.
TS. Văn Thanh Mai - Ths. Nguyễn Thị Thanh
Huyền
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 7/2018
_________________________________________
(1), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.5, tr.309,
167.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.12, tr.269.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.6, tr.208.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.11, tr.611.
(5), (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.4, tr.43,65.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.15, tr.611-612.