Ngày 25/4/2019, tại Hà Nội, Bộ
GD&ĐT đã tổ chức Hội thảo khoa học “Xây dựng cơ chế chính sách phát triển
khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học”. Thứ trưởng Bộ GD&ĐT
Nguyễn Văn Phúc, GS Tạ Ngọc Đôn, Vụ trưởng Vụ Khoa học - Công nghệ và Môi
trường, PGS Hoàng Minh Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội chủ trì
Hội thảo. Trước đó, Hội thảo đã được tổ chức tại khu vực phía Nam.
Phát biểu mở
đầu Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cho biết, trong những năm qua, nghiên
cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học đã có bước chuyển biến ban đầu
tích cực. Minh chứng là so với 5 năm trước, số công bố quốc tế trong các cơ sở
giáo dục đại học của Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi, góp phần đưa xếp hạng khu
vực, quốc tế của các trường tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên,
theo Thứ trưởng, so với yêu cầu, quy mô dân số, tốc độ phát triển kinh tế, thì
phát triển giáo dục đại học, trong đó có vị thế xếp hạng và vấn đề khoa học
công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Điều này có nguyên nhân từ cơ chế chính sách và
nguyên nhân từ ý thức về vai trò khoa học công nghệ trong phát triển nhà trường
của chính các trường.
“Hiện nay,
trong “2 chân” là đào tạo và nghiên cứu khoa học, các trường vẫn chú trọng chủ
yếu là đào tạo, còn nghiên cứu khoa học, dù đã có cải thiện lớn trong thời gian
qua, nhưng so với “chân” đào tạo thì vẫn yếu” - Thứ trưởng cho hay.
Thứ trưởng
Nguyễn Văn Phúc cho rằng, để thực hiện được mục tiêu lấy khoa học nuôi khoa học
và tăng nguồn thu từ nghiên cứu khoa học, nhất thiết phải thay đổi cơ chế chính
sách phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Một số
hạn chế về nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm, khởi nghiệp và đổi mới sáng
tạo hiện nay trong các cơ sở giáo dục đại học cần sự khơi thông, thay đổi về
chính sách.
"Việc
phát triển khoa học công nghệ đóng góp lớn cho nguồn thu các trường, nếu khơi
thông cơ chế chính sách chúng ta sẽ nâng cao thứ hạng giáo dục đại học Việt Nam
trên khu vực và thế giới. Hội thảo là cơ hội để chúng ta tập trung trao đổi về
cơ chế chính sách để thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ trong trường đại
học" - Thứ trưởng khẳng định.
Tại Hội thảo,
3 dự thảo văn bản được đưa ra để lấy ý kiến góp ý liên quan đến xây dựng và
phát triển nhóm nghiên cứu mạnh; đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp (cho giảng
viên); đầu tư phòng thí nghiệm gắn với chương trình nghiên cứu. Các ý kiến nhìn
chung đánh giá cao sự cần thiết phải ban hành các văn bản trên và cho rằng, đây
đều là những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nâng cao năng lực khoa học
công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học.
Một trường đại học có trung bình 7 nhóm
nghiên cứu
Là trưởng nhóm
nghiên cứu thực hiện đề tài thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn
2016-2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào
tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát 216
giảng viên ở 40 trường đại học, viện nghiên cứu trên cả nước, kết quả cho thấy
có 58,8% khẳng định đang tham gia các nhóm nghiên cứu.
Theo thống kê
của Bộ GD&ĐT, tính đến năm học 2016-2017 đã có 491 nhóm giảng dạy - nghiên
cứu được thành lập tại các cơ sở đào tạo. Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường
đạihọc, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 nhóm
nghiên cứu, một trường đại học có trung bình 7 nhóm nghiên cứu.
Thông qua nhóm
nghiên cứu, chất lượng đào tạo tiến sĩ và chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng
bước. Kết quả khảo sát ở Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy, 80% các nghiên cứu
sinh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ của trường, nhờ tham gia
nhóm nghiên cứu nên khi bảo vệ luận án tiến sĩ đều đã có công bố quốc tế ISI.
100% các nghiên cứu sinh ở Đại học Quốc gia Hà Nội có công bố quốc tế đều tham
gia trong các nhóm nghiên cứu.
Năm 2013, tổng
công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, chỉ ở mức 2.309 bài. Tuy
nhiên, theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập (Trường Đại học
Duy Tân), tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng công
bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt
10.515 bài. Con số này hơn cả giai đoạn 5 năm trước đó (2011-2015), khi toàn
Việt Nam mới có 10.034 bài. Nếu chỉ tính riêng các công bố quốc tế thuộc Scopus
của Việt Nam, trong vòng 10 năm trở lại đây (2009-2018) đã tăng gần 5 lần.
“Sự gia tăng
của các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học tỷ lệ thuận với sự gia tăng số
lượng công bố quốc tế. Nhóm nghiên cứu chính là một trong những giải pháp quan
trọng nhất để nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả của các hoạt động nghiên
cứu, ngâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ nhân lực KH&CN cũng như nâng
cao xếp hạng của trường đại học” - GS Nguyễn Đình Đức cho hay.
Chỉ ra một số
tồn tại, hạn chế chủ yếu của các nhóm nghiên cứu hiện nay ở Việt Nam, GS Nguyễn
Đình Đức cho biết đó là còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt nhóm nghiên
cứu; số lượng công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu còn khá khiêm tốn; nguồn
lực đầu tư cho các nhóm nghiên cứu còn hạn chế. Ngoài ra, về phía quản lý nhà
nước, trường đại học, còn thiếu chính sách cụ thể, đủ mạnh để hỗ trợ, thúc đẩy
sự hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học.
“Qua khảo sát
thực tiễn hoạt động của các nhóm nghiên cứu, chúng tôi kiến nghị cần sớm ban
hành những chính sách cụ thể, đồng bộ và đủ mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình
hành phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học hiện nay. Các
chính sách cần được xây dựng theo hướng quy định tiêu chí để phân loại các nhóm
nghiên cứu; khi ban hành các tiêu chí và xem xét mức đầu tư cho nhóm nghiên cứu
cũng cần quy định phù hợp với từng đối tượng, cấp độ để đảm bảo đầu tư không
lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất” - GS Nguyễn Đình Đức đề
xuất.
Phải chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún
Phát biểu tại
Hội thảo, GS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhấn
mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của phòng thí nghiệm với các nghiên cứu thực
nghiệm. Trong đó, cần xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển
kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực của đất nước từng giai đoạn và đặt yêu cầu đối
với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, từ đó đưa ra nhiệm vụ đầu tư xây dựng các
phòng thí nghiệm nghiên cứu, đào tạo, gắn kết nghiên cứu, đào tạo và chuyển gia
công nghệ. Cần chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún, dàn trải, không đầu tư khi
thiếu các luận cứ cốt yếu (sứ mạnh, nhân lực...). Vì vậy, cần có tiêu chuẩn,
tiêu chí cụ thể để xem xét đầu tư.
GS Nguyễn Văn
Minh cũng cho rằng, cần ưu tiên xây dựng các cơ sở nghiên cứu liên ngành phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là nông nghiệp, công nghiệp
tiêu dùng, thủy sản và công nghệ thông tin. Đồng thời, lấy đó làm nền tảng ban
đầu để đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu có tính chuyên sâu. Xây dựng chuỗi liên
kết: cơ sở nghiên cứu, cơ sở thử nghiệm và cơ sở sử dụng. Với những lĩnh vực ưu
tiên, sau khi đầu tư có trọng điểm, cần có cơ chế quản lý, cơ chế tài chính để
cơ sở chủ động hội nhập nhằm đem lại kết quả nhanh và tốt nhất.
Cùng quan tâm
đến nội dung này, PGS.TS Đỗ Ngọc Mỹ, Hiệu trưởng Trường Đại học Quy Nhơn đưa ra
đề xuất, trên cơ sở tham khảo tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm
quốc tế và trọng nước, cần tổ chức tốt việc xây dựng các bộ tiêu chí đánh giá
tính hiệu quả của các phòng thí nghiệm trọng điểm trong từng ngành, lĩnh vực.
Trên cơ sở các tiêu chí này, các phòng thí nghiệm sẽ thực hiện, đánh giá hoạt
động của mình, từ đó chọn ưu tiên đầu tư phòng thí nghiệm hoạt động hiệu quả.
Những phòng
thí nghiệm được coi là trọng điểm được nhà nước ưu tiên đầu tư tài trợ phải là
nơi thể hiện được một định hướng phát triển thuyết phục cùng đội ngũ các nhà
nghiên cứu giàu năng lực, có kinh nghiệm và khát vọng cống hiến. Năng lực, kinh
nghiệm nhất thiết phải được minh chứng qua những sản phẩm nghiên cứu cụ thể.
“Tóm lại, việc
xác định đầu ra cho một phòng thí nghiệm trọng điểm là rất quan trọng. Điều này
sẽ giúp cho việc xác định các nhóm nghiên cứu có xứng đáng được đầu tư hay
không” - PGS.TS Đỗ Ngọc Mỹ nêu quan điểm.
Trung tâm Truyền thông Giáo dục