Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người, trong suốt cuộc đời, đã thực hiện một cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, những phẩm chất đạo đức được Người nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, có khi Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Trong những phẩm chất đó thì phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư được Người đề cập nhiều nhất bởi phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, gắn liền giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong đời công cũng như trong đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công tác. Vậy Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích ý nghĩa và mối liên quan của những từ này một cách đơn giản, rõ ràng và rất dễ hiểu.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Cần còn là làm việc một cách thông minh, sáng tạo, có kế hoạch, khoa học. Theo Bác, con người có đức Cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được. Đúng như câu tục ngữ kiến tha lâu cũng đầy tổ, nước chảy mãi đá cũng mòn. Bác lưu ý, kẻ địch của chữ Cần là lười biếng. Bác cho rằng nếu có một người, một địa phương, hoặc một ngành mà lười biếng thì khác nào toàn chuyến xe đang chạy, mà có một bánh trật ra ngoài đường ray. Họ sẽ làm chậm trễ cả một chuyến xe. Vì vậy, người lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân; phải tiết kiệm từ cái lớn đến cái nhỏ, không phô trương hình thức, không xa xỉ, hoang phí. Cần và Kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm thì như gió vào nhà trống, như nước đổ vào cái thùng không đáy, làm chừng nào xào chừng ấy, rốt cuộc không lại hoàn không. Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm và không phát triển được. Bác giải thích, tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không đáng tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu, nhưng khi có việc cần làm lợi cho dân, cho nước thì hao bao nhiêu của, tốn bao nhiêu công cũng vui lòng, như thế mới là kiệm.
Liêm nghĩa là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Bác đã nhắc lại một số ý kiến của các bậc hiền triết ngày trước: Khổng Tử nói: "Người mà không Liêm thì không bằng súc vật"; Mạnh Tử cho rằng: "Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy". Do vậy, Bác yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo phải thực hiện tốt chữ Liêm. Chữ Liêm và chữ Kiệm phải đi đôi với nhau như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm thì mới Liêm được, bởi xa xỉ ắt sinh tham lam, không giữ được Liêm. Bác cũng chỉ rõ ngược lại với chữ Liêm là tham ô, là ăn cắp của công làm của tư, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của nhà nước làm quỹ riêng cho địa phương mình. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn Liêm thật sự thì phải chống tham ô.
Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn. Theo Bác, trên trái đất có hàng muôn triệu người, trong số người đó chỉ có thể chia làm hai hạng là người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm nghìn công việc song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ là việc chính việc tà. Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc ích nước, lợi nhà. Bác khẳng định: Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính, như một cái cây cần có cành lá, hoa quả mới là một cây hoàn toàn. Con người có Cần, Kiệm, Liêm nhưng cần phải Chính thì mới hoàn chỉnh.
Chí công vô tư nghĩa là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Thực chất của chí công vô tư ở đây chính là thể hiện mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, thể hiện thái độ, trách nhiệm của mỗi người đối với công việc được giao. Chí công vô tư còn là ham làm những gì có lợi cho dân, cho nước, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý. Chí công vô tư thì lòng dạ thanh thản, đầu óc tỉnh táo, sáng suốt. Đối lập với Chí công vô tư là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là bệnh mẹ đẻ ra hàng trăm thứ bệnh con, hàng trăm thói hư, tật xấu. Bác coi đó là thứ giặc ở trong lòng, tội cũng nặng như tội việt gian, mật thám vậy. Thực hành Chí công vô tư là kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều bài viết, bài báo để phân tích, giải thích sinh động, cụ thể và sâu sắc về các phẩm chất Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, đồng thời chỉ ra quan hệ giữa chúng với nhau. Cần, Kiệm, Liêm, Chính sẽ dẫn đến Chí công vô tư; ngược lại, đã Chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm, Liêm, Chính và có được nhiều tính tốt khác. Tư tưởng của Người về Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư là sự kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bác coi đó không phải chỉ là phẩm chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả dân tộc. Do vậy, Người yêu cầu mỗi người dân Việt Nam đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất trên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người vẫn còn căn dặn: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gần tám thập kỷ qua có vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Nguyễn Quang Tuấn