Trong bối cảnh tốc độ phát triển
công nghệ mới và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, dưới áp lực ghê gớm từ các
doanh nghiệp nước ngoài đổ bộ vào Việt Nam, khối tư nhân trong nước ngày càng
phải tập trung vào R&D để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Cuối năm ngoái, Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng khẳng định tại Hội nghị APEC tại Đà Nẵng rằng “Việt
Nam hướng đến một nền kinh tế năng động dựa trên đổi mới sáng tạo”. Nhưng làm
thế nào để đạt được điều đó, khi từ trước đến nay, các doanh nghiệp không có
“truyền thống” quan tâm đến công nghệ, còn các nghiên cứu của viện, trường vẫn
còn một khoảng cách rất xa so với đích đến ứng dụng?
Các tổ chức khoa học và công nghệ
(KH&CN) công lập1 và doanh nghiệp là hai chủ thể đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Một bên là chủ thể tạo ra tri thức và
công nghệ rồi sau đó phổ biến, chuyển giao và một bên là nơi tiếp nhận các tri
thức và công nghệ để tạo ra sản phẩm, quy trình và dịch vụ mới theo nhu cầu của
khách hàng. Để thúc đẩy sự sáng tạo tri thức trong các tổ chức KH&CN và đẩy
nhanh ứng dụng nó trong các ngành công nghiệp, hai chủ thể này phải liên kết và
hợp tác với nhau. Sự liên kết, hợp tác này được thực hiện dưới nhiều hình thức:
đối tác nghiên cứu (cùng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu), cung cấp các dịch
vụ nghiên cứu (tư vấn kỹ thuật, đo lường, kiểm định chất lượng, phát triển sản
phẩm mẫu,…), chia sẻ cơ sở hạ tầng (phòng thí nghiệm, trung tâm ươm tạo, công
viên công nghệ…), đào tạo và chuyển giao nguồn nhân lực (đào tạo nhân lực cho
các doanh nghiệp, triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu, cử cán bộ từ
tổ chức KH&CN sang làm biệt phái tại các doanh nghiệp…), thương mại hóa các
kết quả R&D (chuyển giao kết quả nghiên cứu từ tổ chức KH&CN cho doanh
nghiệp, cấp phép công nghệ…), hình thành các mối quan hệ xã hội (hội nghị, hội
thảo…).
Ở các quốc gia đã chuyển đổi thành
công từ nước đang phát triển thành nước có nền công nghiệp hiện đại (ví dụ như
Hàn Quốc, Đài Loan), các tổ chức KH&CN công lập thường liên kết và hợp tác
chặt chẽ với khu vực doanh nghiệp vì trong quá trình đổi mới sản phẩm, doanh
nghiệp thường xuyên sử dụng các thông tin sáng chế, hợp tác với các trường đại
học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm để thực thi các ý tưởng đổi mới
sản phẩm/dịch vụ. Đồng thời, chính bản thân các đối tượng trên cũng thường
xuyên hướng vào phục vụ các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển. Như vậy, các
hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được gắn kết với nhu cầu sản xuất,
kinh doanh tại doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp.
Tại sao không gặp nhau?
Theo Báo cáo xếp hạng năng lực cạnh
tranh toàn cầu (The Global Competitiveness Report - GCR) năm 2016-2017 của Diễn
đàn Kinh tế Thế giới, Việt Nam đứng thứ 79 trong số 138 quốc gia về sự hợp tác
giữa khu vực nghiên cứu và doanh nghiệp, yếu hơn Indonesia (28), Thái Lan (41)
và Philipine (61). Riêng về chất lượng nghiên cứu Việt Nam xếp thứ 98 trong số
138 quốc gia về chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học, yếu hơn so với
Indonesia (41), Thái Lan (56) và Philipine (72). Sự liên kết giữa doanh nghiệp
và nghiên cứu còn yếu vì những nguyên nhân sau:
1. Các doanh nghiệp nhà nước và tư
nhân nhìn chung có ít động lực và kinh nghiệm để tiến hành các hoạt động nghiên
cứu và đổi mới công nghệ. Họ thường ưu tiên đầu tư vào những hoạt động thu hồi
vốn nhanh và mang lại lợi nhuận trước mắt, vì đầu tư vào đổi mới sáng tạo đòi
hỏi phải có thời gian và tính rủi ro cao. Theo kết quả điều tra năm 2013
về “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở
cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam”2, chỉ có 8% trong số 8010 doanh nghiệp đầu tư
vào nghiên cứu, cải tiến công nghệ và trên 90% doanh nghiệp chưa có chiến lược
cải tiến công nghệ.
2. So với nguồn lực (kinh phí dành
cho nghiên cứu và số lượng cán bộ nghiên cứu) số lượng các tổ chức KH&CN
của Việt Nam khá lớn, do đó các tổ chức KH&CN có quy mô nhỏ và manh mún, hệ
quả là rất ít tổ chức KH&CN có được năng lực tới hạn cần thiết để tạo ra
các kết quả nghiên cứu có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn từ khu vực doanh
nghiệp. Các trường đại học tập trung nhiều vào công tác giảng dạy và đào tạo,
hoạt động nghiên cứu khoa học còn khiêm tốn và chủ yếu là nghiên cứu cơ bản.
3. Mô hình quản trị của các tổ chức
KH&CN nhìn chung mang tính hành chính và bao cấp, thiếu các hệ thống quản
lý chuyên nghiệp như: hệ thống quản lý tài chính, quản lý hợp đồng, quản lý
nguồn nhân lực, quản lý cơ sở vật chất và quản lý chất lượng. Kinh phí hoạt
động của các tổ chức KH&CN công lập chủ yếu là từ nguồn ngân sách, các
nhiệm vụ nghiên cứu thường là từ đặt hàng của nhà nước, một số tổ chức
KH&CN đã nhận thấy được tầm quan trọng của việc liên kết và hợp tác với các
doanh nghiệp và một số đang có những tiến bộ đáng kể về khía cạnh này. Tuy
nhiên đa phần các tổ chức KH&CN thiếu kinh nghiệm, kỹ năng và nguồn lực để
xây dựng và duy trì các mối quan hệ quan trọng này.
4. Thiếu chính sách và chương trình
hành động cụ thể khuyến khích sự liên kết, hợp tác giữa tổ chức KH&CN công
lập với khu vực doanh nghiệp. Mặc dù chính phủ đã xây dựng các cơ sở hạ tầng và
các tổ chức trung gian cần thiết như các văn phòng chuyển giao công nghệ, các
khu công nghệ cao và các vườn ươm doanh nghiệp để khuyến khích sự hợp tác giữa
tổ chức KH&CN công lập với khu vực doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn thiếu chính
sách, cơ chế kích thích sự hợp tác theo các hình thức như cùng thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu, chia sẻ cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, cung
cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm đối tác và tiến
hành các hoạt động đổi mới và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sự hợp
tác. Gần đây, có một số sáng kiến tài trợ cho các nhóm liên kết, hợp tác nghiên
cứu giữa tổ chức KH&CN và khu vực doanh nghiệp như: Dự án FIRST3, Dự án
IPP4, nhưng kinh phí của các dự án này
chủ yếu là từ Chính phủ Phần Lan và Ngân hàng Thế giới và chỉ mang tính chất
thử nghiệm.
Doanh nghiệp, viện, trường đều cần
đổi mới
Để khắc phục những tồn tại nêu trên
nhằm đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác giữa tổ chức KH&CN công lập với doanh
nghiệp xin kiến nghị các giải pháp sau:
1. Chính phủ tạo động lực thông qua
việc khuyến khích sự cạnh tranh và tạo điều kiện tiếp cận nguồn tài chính cho
các doanh nghiệp chú trọng vào đổi mới sáng tạo. Cần đặt các doanh nghiệp theo
đuổi việc đổi mới sáng tạo và ứng dụng kết quả R&D của các trường đại học
và các cơ quan nghiên cứu nhà nước vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo
quốc gia, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Các doanh nghiệp
phải nhận thức được việc nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo là vấn đề cấp thiết
để doanh nghiệp có thể nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu các
doanh nghiệp chú trọng vào đổi mới sáng tạo, họ sẽ đầu tư nhiều hơn vào hoạt
động này, từ đó thu hút thêm nguồn vốn đầu tư cho KH&CN.
2. Cấu trúc lại hệ thống tổ chức
KH&CN công lập, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu trong các trường đại học và
tập trung đầu tư để các tổ chức KH&CN đạt được năng lực tới hạn lớn hơn và
tập trung nhiều hơn vào việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới có giá trị
phục vụ cho khu vực doanh nghiệp. Việc cấp kinh phí cho các tổ chức KH&CN
nên gắn với kết quả thực hiện. Nếu một tổ chức không có đủ năng lực KH&CN
cần thiết, họ không thể giành được các đề tài, dự án do đó không thể tồn tại
lâu dài, như vậy là tạo động lực mạnh mẽ đối với các tổ chức nghiên cứu để họ
liên tục nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
3. Các tổ chức KH&CN cần đổi mới
mô hình quản trị. Ngày nay, mô hình quản trị và quản lý của các tổ chức nghiên
cứu ngày càng giống với các mô hình thường thấy trong khu vực doanh nghiệp, với
trọng tâm là tạo ra giá trị, tăng doanh thu5 và quản lý chi phí hơn là một đơn
vị hành chính bao cấp. Họ phải xác định rõ sứ mạng và đối tượng sử dụng kết quả
nghiên cứu của mình để có chiến lược phát triển tổ chức mình bền vững, phải chủ
động tìm nguồn kinh phí cho các đề tài, dự án từ các chương trình tài trợ cạnh
tranh và dành được các hợp đồng nghiên cứu từ khu vực doanh nghiệp để bổ sung
vào nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách. Việc áp dụng mô hình kinh doanh sẽ
tạo điều kiện cho các lãnh đạo tổ chức KH&CN tăng quyền tự chủ và quyền
quyết định đồng thời cũng đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
của tổ chức mình.
4. Ban hành cơ chế, chính sách, khởi
động chương trình tài trợ khuyến khích sự liên kết, hợp tác giữa tổ chức
KH&CN công lập với doanh nghiệp (có thể rút kinh nghiệm từ các dự án IPP,
FIRST...). Chương trình nên mang tính định hướng thị trường - tập trung tạo giá
trị kinh tế cho khu vực doanh nghiệp. Chương trình cần được thiết kế căn cứ vào
nhu cầu và các lĩnh vực ưu tiên của khu vực doanh nghiệp. Để xác định được
những nhu cầu này cần có sự đối thoại nghiêm túc giữa khu vực doanh nghiệp và
các tổ chức KH&CN, vì khu vực doanh nghiệp thường không nắm bắt được tính
khả thi về mặt kỹ thuật còn tổ chức KH&CN thì thường không hiểu công việc
kinh doanh cũng như các yêu cầu phi kỹ thuật để thực hiện thành công. Sự đối
thoại này được thể hiện qua nhiều lần tương tác giữa khu vực doanh nghiệp và tổ
chức KH&CN, từ đó sẽ hình thành sự tin tưởng và hiểu biết về các cơ hội hợp
tác giữa họ. Thông qua chương trình này, các doanh nghiệp và tổ chức KH&CN
cùng nhau phát triển các năng lực R&D
phục vụ cho các khách hàng hiện tại và tương lai và hình thành các ngành
kinh tế mới.
---------
Nguyễn Thị Thu Oanh,
Phó Giám đốc Ban quản lý Dự án FIRST
1 Các tổ chức KH&CN công lập bao gồm các
viện nghiên cứu và trường đại học.
2 Báo cáo tóm tắt thông tin từ cuộc Điều tra về
Năng lực cạnh tranh và Công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam do Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Tổng cục Thống kế và Nhóm Nghiên cứu
Kinh tế phát triển thuộc Trường Đại học Copenhagen, Đan Mạch phối hợp thực hiện
năm 2013.
3 Thông tin chi tiết về dự án tại đường link
sau: http://ipp.vn/
4 Thông tin chi tiết về dự án tại đường link
sau: http://first-most.vn/
5 Doanh thu của các tổ chức KH&CN là nguồn
kinh phí có được từ các đề tài, dự án được tài trợ thông qua các chương trình,
quỹ tài trợ ở trong nước và quốc tế, từ các hợp đồng nghiên cứu, chuyển giao
kết quả nghiên cứu và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp.