Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh,
Phó trưởng ban Chính sách, AVU&C;
Cố vấn chiến lươc nền tảng OFE
Chuyển đổi kỹ thuật số trong
giáo dục đại học đang là chủ đề thời sự nóng bỏng trên thế giới cũng như ở Việt
Nam.
Đề tài này do nhóm chuyên gia của
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh và Tiến sĩ
Lê Đức Ngọc) bắt đầu viết dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Trần Hồng Quân từ đầu năm
2020 khi đại dịch Covid 19 căng thẳng.
Cho đến nay, nhóm nghiên cứu
đang hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Toà soạn trân trọng giới thiệu bài viết
mới nhất gửi về từ Singapore của Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh, Phó trưởng Ban Chính
sách của Hiệp hội giới thiệu về bức tranh chuyển đổi số và trách nhiệm của các
trường đại học, cao đẳng trong quá trình đổi mới này.
Để mô tả tính chất đổi mới giáo
dục đại học hoàn toàn khác biệt trong thời đại Kỹ thuật số đầu thế kỷ 21, bài
viết có nhắc tới các Hiệp hội Đại học, Cao đẳng Hoa Kỳ, Hiệp hội Các trường Cao
đẳng Sư phạm Hoa kỳ, Hiệp hội các thư viện và Hiệp hội các Đại học Mở ở Trung
Đông.
Là cố vấn chiến luợc cho nền tảng
Giáo dục biên giới Mở (OFE) nhúng trong công nghệ Blockchain 3.0, Tiến sĩ Tỉnh
sắp tới sẽ giới thiệu nền tảng công nghệ Blockchain CSE30 là sản phẩm của các
nhà khoa học Việt Nam, là cái mà nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới đang muốn
tiếp cận để ứng dụng. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Tóm
tắt
Vai trò chủ đạo mà công nghệ kết
nối kỹ thuật số xuất hiện đầu thế kỷ 21 đang gây ra những thay đổi sâu sắc
trong mọi lĩnh vực cuộc sống, nó báo hiệu rằng chúng ta đã bước sang một kỷ
nguyên mới: thời đại kỹ thuật số.
Giáo dục là một trong những lĩnh vực cơ bản của cuộc sống được
tái thiết kế để áp dụng cho bối cảnh đang thay đổi về ý nghĩa hoạt động của nó
trong thời đại mới này.
Mô hình trường học dựa trên các điều kiện và yêu cầu thời đại
công nghiệp dường như không đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của người học thế kỷ
21.
Các công nghệ kết nối kỹ thuật số mới nổi và những đổi mới
giáo dục đã được kích hoạt bởi tài nguyên giáo dục mở (OER), khóa học mở trực
tuyến đại chúng (MOOC) vv… đang phá vỡ các quy trình và cấu trúc học tập của thời
đại công nghiệp, do đó nó là cấp bách để phát triển mô hình GD mới.
Những cải tiến mới này cho phép người học mở rộng việc học
ra ngoài ranh giới cơ sở học tập truyền thống qua trải nghiệm học không chính
quy phong phú bằng cách sử dụng cộng đồng trực tuyến trên các nền tảng mới như
mạng xã hội và các công nghệ khác.
Đổi mới kỹ thuật số cũng giải phóng người học khỏi xiềng
xích của thời gian để họ không chỉ truy cập mà còn tạo ra kiến thức thông qua
tương tác và cộng tác xã hội.
Thời đại chúng ta đang sống đã chín muồi cho những thay đổi
cơ bản chưa từng có và cơ hội cho giáo dục đại học.
Các nhà hoạch định chính sách giáo dục đại học cần phải suy
nghĩ lại tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số, những thách thức và cơ hội
mà chúng mang lại cho bối cảnh giáo dục trong khi phát triển các chính sách giá
trị gia tăng trong giáo dục đại học.
Mục đích bài viết là cung cấp thông tin về bức tranh chuyển
đổi kỹ thuật số của giáo dục đại học.
1. Giới
thiệu
Công nghệ kết nối kỹ thuật số trong thế kỷ 21 đã và đang tác
động sâu rộng đến mọi lĩnh vực xã hội, kinh tế và chính trị.
Nó tạo ra những thay đổi đáng kể trong cách mọi người tương
tác với nội dung, giao tiếp với nhau và hoạt động trong xã hội.
Ngoài việc gia tăng cách thức giao tiếp, công nghệ mới này
đã gây ra những thay đổi mạnh mẽ trong cách mọi người tiếp cận thông tin.
Sách in và bách khoa toàn thư theo nghĩa truyền thống không
phải là nơi nắm giữ thông tin duy nhất, mà thông tin hiện đang được phân phối
trên mạng các công nghệ kỹ thuật số được kết nối cho phép truy cập mọi lúc mọi
nơi ở bất kỳ chỗ nào có thể.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi thực sự không nằm ở việc gia tăng
và đa dạng hóa các cách tiếp cận thông tin, mà nằm ở việc tăng cơ hội cho các
cá nhân đóng góp vào sản xuất nội dung và xây dựng kiến thức.
Ngày nay, mỗi cá nhân đều có tiềm năng không chỉ tiêu thụ mà
còn sản xuất thông tin.
Thời đại chúng ta đang sống cho thấy những khác biệt cơ bản
về cách thức hoạt động của toàn xã hội, trong đó thế giới được kết nối thông
qua các phương tiện kỹ thuật số ở quy mô chưa từng có.
Trong thời gian ngắn, những công cụ kỹ thuật số đang kích
thích những thay đổi mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, có thể gọi
là, “kỷ nguyên số”.
Bản chất phức tạp và hỗn loạn của những thay đổi này bị áp lực
bởi tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số đang phá vỡ các cấu trúc kinh tế-xã
hội, tạo ra các quá trình chuyển đổi nhằm cố gắng phù hợp hơn với nhu cầu và
yêu cầu của thời đại kỹ thuật số.
Điều tự nhiên mà các xã hội mong đợi là những thay đổi mang
tính chuyển đổi trong lĩnh vực giáo dục để phục vụ tốt hơn những nhu cầu và đòi
hỏi của xã hội trong thời đại mới này.
Các cơ sở giáo dục đại học, có vai trò riêng biệt trong việc
sản xuất và phổ biến kiến thức, đã và đang phải chịu áp lực thay đổi mạnh mẽ
hơn nhiều.
Do đó, sự cạnh tranh toàn cầu trong nền kinh tế tri thức được
thúc đẩy bởi vai trò chủ đạo của các công cụ kết nối kỹ thuật số đang buộc các
cơ sở giáo dục đại học phải đánh giá cấu trúc hiện tại của họ và đưa ra quyết định
quyết liệt để cải thiện các cấu trúc này cho phù hợp hơn với nhu cầu và yêu cầu
của thế kỷ 21.
Vậy những tiến bộ kỹ thuật số nào buộc các đại học, cao đẳng
phải chuyển đổi và áp dụng cho thế kỷ 21?
Trong số các động lực cải cách cơ cấu giáo dục đại học, vai
trò tiếp cận và phổ biến kiến thức đang chuyển dần khỏi giáo dục đại học; những
nền tảng kỹ thuật số mang các phương án tương tác mới, các cách thức mới để thể
hiện văn hóa, các đồ tạo tác liên quan và các giá trị của nó; hiệu ứng truyền
thông xã hội; dữ liệu lớn và phân tích học tập; các khóa học MOOC và tài nguyên
giáo dục mở; trò chơi giáo dục và sự tiến bộ của các nền tảng kỹ thuật số cho
phép tăng cường tương tác và hợp tác giữa người hướng dẫn và người học.
Ngoài ra, các cơ sở giáo dục đại học đang phải đối mặt với
những thách thức đặc biệt của thế kỷ 21 bao gồm hồ sơ người học thay đổi và đa
dạng, tính di động của người học, học suốt đời và cạnh tranh thị trường với các
nhà cung cấp giáo dục đại học mới đang tăng lên.
Những thay đổi về hành chính và cơ cấu mà cơ sở giáo dục đại
học phải đối phó là có ba loại chính; 1) Thay đổi trong cung cấp dịch vụ và tài
chính; 2) Thay đổi về quy trình hành chính; 3) Thay đổi trong mô hình Dạy và Học.
Mặt khác, Erdem (2006) nhấn mạnh những thay đổi trong trách nhiệm của ba cấu
trúc riêng biệt: chính phủ, xã hội và trường đại học.
Erdem (2006) cho rằng các mối quan hệ năng động giữa trường
đại học và Nhà nước đã và đang trải qua những thay đổi do những tiến bộ trong
thế kỷ 21 liên quan đến các yêu cầu trách nhiệm giải trình ngày càng tăng đối với
nhà trường, tác động của công nghệ kỹ thuật số đối với việc cung cấp các dịch vụ
giáo dục và thực hiện các hoạt động nghiên cứu, quốc tế hóa giáo dục đại học và
gia tăng cạnh tranh toàn cầu.
Tuy nhiên, một thách thức khác mà các trường đang phải đối mặt
hiện nay là nhà trường được coi là những doanh nghiệp có độ phức tạp cao cung ứng
nguồn lực cho xã hội tri thức và kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến các quá
trình nội bộ và quan hệ bên ngoài mà các trường đại học có với cộng đồng phi học
thuật.
Các công cụ kỹ thuật số được coi là giải pháp cho những
thách thức về cơ cấu và quản trị của các cơ sở giáo dục đại học.
Đó là các công cụ đào tạo từ xa, hệ thống quản lý học tập
tinh vi, các công cụ mạng xã hội trực tuyến, thực tế ảo và tăng cường, OER và
MOOC được coi là những đổi mới góp phần tạo cơ hội giáo dục bình đẳng cho tất cả
mọi người, tiếp cận nội dung giáo dục chất lượng và hỗ trợ học tập suốt đời.
Mặt khác, chính những đổi mới đưa ra bởi các giải pháp này
có thể trở thành thách thức lớn hơn nữa.
Những lý do cơ bản khiến những đổi mới này trở thành thách
thức tiềm ẩn hơn nữa chính là tình trạng thiếu chính sách và kế hoạch phù hợp,
phân bổ nguồn lực không đủ, thiếu nhân viên có trình độ để thiết kế hướng dẫn
và hỗ trợ kỹ thuật, yêu cầu cập nhật nhanh chóng và liên tục.
Các cơ sở giáo dục đại học cũng hành động miễn cưỡng khi cân
nhắc việc tích hợp các đổi mới này vì các lo ngại như gây mất tập trung, đạo
văn và gian lận.
Những lý do này cho thấy điều tối quan trọng là phải xem xét
thách thức tiềm ẩn và cách đối phó với chúng với ngụ ý nói tới bối cảnh giáo dục
hiện nay.
Như đã nêu ở trên, cơ sở giáo dục đại học đang trải qua nhiều
áp lực thay đổi về quy trình cấu trúc và hành chính do kết quả đổi mới kỹ thuật
số.
Ngày càng có nhiều cá nhân có nhu cầu tiếp cận nền giáo dục
đại học phù hợp với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số và những công nghệ
này có tiềm năng giải quyết nhu cầu và tính đa dạng hồ sơ người học.
Do đó, các cơ sở giáo dục đại học cần thiết kế lại cấu trúc
và hoạt động của mình để giữ được tiềm năng bên cạnh những thách thức do công
nghệ kết nối kỹ thuật số mang lại.
Các trường cần xem xét lại sứ mệnh và tầm nhìn của mình để
phù hợp với sự phát triển công nghệ kỹ thuật số cũng như tác động sư phạm và cấu
trúc của những công nghệ này đối với không gian giáo dục.
Trong thế kỷ 21, các nhà trường cần cải thiện khả năng
nghiên cứu và phát triển, khả năng cạnh tranh và tương tác giữa các khoa, bộ
môn riêng biệt, năng lực đổi mới và giải quyết vấn đề.
Họ cũng được yêu cầu chuyển đổi thành các tổ chức có thể áp
dụng kỹ thuật số, có năng suất khoa học và sáng tạo với tầm nhìn toàn cầu.
Để thực hiện tất cả những điều này, các nhà trường cần phải
hòa nhập với xã hội đang hoạt động với tinh thần doanh nhân khởi nghiệp khi quản
lý nguồn nhân lực và nguồn nhân lực của mình.
Thời đại chúng ta đang sống đã chín muồi cho những cơ hội và
thay đổi cơ bản chưa từng có.
Do đó, các nhà hoạch định chính sách về giáo dục cần phải
suy nghĩ lại tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số, những thách thức và cơ
hội mà chúng mang lại cho bối cảnh giáo dục trong khi phát triển các chính sách
giá trị gia tăng của giáo dục đại học.
Bài báo này đề cập đến người học, người hướng dẫn, môi trường
học tập và các khía cạnh quản trị của cơ sở giáo dục đại học và cách các công
nghệ kết nối kỹ thuật số đang tác động lên những khía cạnh này trong.
2. Người
học
Một trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy các trường cao đẳng,
đại học thay đổi là phải gắn liền với người học. Không chỉ dân số người học
ngày càng tăng mà hồ sơ người học cũng thay đổi và đa dạng.
Ngày càng có nhiều cá nhân thích quay lại trường học sau khi
tốt nghiệp vì những lý do như nhu cầu phát triển nghề nghiệp vì những phẩm chất
có được ở những năm học tại nhà trường không đủ để giải quyết những vấn đề phải
đối mặt trong cuộc sống nghề nghiệp ở thế kỷ 21.
Ngoài ra, những tiến bộ công nghệ đang làm thay đổi sâu sắc
trình độ mà lực lượng lao động cần để phát triển hiện tại và tương lai; ước
tính khoảng 65% trẻ em tiểu học ngày nay sẽ làm việc trong những công việc mà
không tồn tại hiện nay (Şahin & Alkan, 2016).
Do đó, một trong những vấn đề quan trọng mà các cơ sở giáo dục
đại học phải giải quyết là ý nghĩa của việc trở thành một cá nhân được giáo dục
trong thế kỷ 21.
Những kỹ năng nào trong thế kỷ 21 người học cần có để hoạt động
tốt hơn trong xã hội và thành công trong cuộc sống nghề nghiệp ở thời đại kỹ
thuật số thay đổi nhanh chóng?
Đó là các kỹ năng học tập và đổi mới, kỹ năng thông tin,
truyền thông và công nghệ cũng như kỹ năng sống và nghề nghiệp.
Nhiều tổ chức khác nhau như Hiệp hội Đối tác vì Học tập Thế
kỷ 21 (P21), Hiệp hội các trường cao đẳng, đại học Hoa Kỳ (AAC&U), Tổ chức
Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hiệp hội Thủ thư Trường học Hoa Kỳ (AASL)
đã công bố báo cáo nhấn mạnh các kỹ năng của thế kỷ 21.
Những kỹ năng mà người học cần phát triển để trở thành công
dân trong thời đại kỹ thuật số là các kỹ năng cứng bao gồm các kỹ năng tiện ích
công cụ, kể cả kiến thức kỹ thuật số và kỹ năng mềm đề cập đến tính linh hoạt,
khả năng thích ứng và xử lý thông tin.
Mặc dù có những mô tả khác nhau về những kỹ năng của thế kỷ
21 là gì, những kỹ năng này được Trilling & Fadel (2009) phân thành ba loại
chính và các loại phụ liên quan:
1) Kỹ năng Học tập và Đổi mới gồm kỹ năng tư duy phản biện
và giải quyết vấn đề, giao tiếp và hợp tác, sáng tạo và đổi mới;
2) Các kỹ năng về Thông tin, Truyền thông và Công nghệ bao gồm
hiểu biết về thông tin, hiểu biết về phương tiện truyền thông và hiểu biết về
thông tin và truyền thông;
3) Kỹ năng sống và nghề nghiệp bao gồm tính linh hoạt và khả
năng thích ứng, chủ động và tự định hướng, kỹ năng xã hội và đa văn hóa, năng
suất và trách nhiệm giải trình, kỹ năng lãnh đạo và trách nhiệm.
Ngoài ba loại chính mà sáng kiến P21 đưa ra, AAC&U
(2007) đã đề xuất các bộ kỹ năng mà người học tại các cơ sở giáo dục đại học cần
phát triển, tuy có những điểm tương đồng cơ bản giữa các kỹ năng do P21 và
AAC&U đề xuất, các kỹ năng của AAC&U được coi là phù hợp hơn vì được
thiết kế đặc biệt cho giáo dục đại học.
Theo lý do này, khung Kết quả Học tập Thiết yếu bao gồm các
kỹ năng của thế kỷ 21 do AAC&U đề xuất được trình bày dưới đây (AAC &
U, 2007, tr. 3):
1. Kiến thức về Văn hóa Con người và Thế giới Vật lý và Tự
nhiên thông qua nghiên cứu về khoa học và toán học, khoa học xã hội, nhân văn,
lịch sử, ngôn ngữ và nghệ thuật;
2. Kỹ năng Trí tuệ và Thực hành bao gồm hỏi đáp và phân
tích, tư duy phản biện và sáng tạo, giao tiếp bằng văn bản và bằng miệng, hiểu
biết về định lượng, hiểu biết về thông tin, làm việc nhóm và giải quyết vấn đề;
3. Trách nhiệm cá nhân và xã hội bao gồm kiến thức và sự
tham gia của công dân - địa phương và toàn cầu, kiến thức và năng lực liên văn
hóa, lý luận và hành động đạo đức, nền tảng và kỹ năng để học tập suốt đời;
4. Học tập tích hợp bao gồm tổng hợp và thành tích nâng cao
trong các nghiên cứu chung và chuyên ngành.
Câu hỏi đặt ra từ hai khung này là liệu cơ sở giáo dục đại học
có được trang bị và cấu trúc phù hợp để phát triển các kỹ năng của thế kỷ 21 được
đưa vào trong hai khung này hay không.
Các trường đại học, cao đẳng cần xem xét lại cấu trúc của
mình bao gồm chương trình giảng dạy, môi trường học tập và hệ thống đánh giá.
Ngoài các kỹ năng của thế kỷ 21, hồ sơ của người học cũng
đang thay đổi. Người học đã tích hợp các công cụ kỹ thuật số trong hầu hết những
việc họ làm.
Các công cụ mà người học sử dụng một cách thuần thục trong
cuộc sống hàng ngày của họ đã và đang định hình lại phong cách và thói quen học
tập.
Vì vậy, người học bắt đầu vào học đại học với một tư duy
khác với các thế hệ trước họ. Trong một nghiên cứu do Xerox thực hiện vào năm
2002 với một học sinh 15 tuổi, Brown đã phát hiện ra rằng người học ngày nay được
trang bị các kỹ năng khác nhau như:
a. Đa xử lý đề cập đến khả năng đa nhiệm,
b. Điều hướng thông tin và hiểu biết về màn hình và hình ảnh
bên cạnh khả năng hiểu biết về văn bản,
c. Không ngừng khám phá những điều mới khi duyệt các thư viện
kỹ thuật số,
d. Học tại chỗ.
Người học ngày nay được bao quanh bởi máy tính (máy để bàn,
máy xách tay và máy bảng), thiết bị di động (smart phone) và bởi các ứng dụng
được cài đặt trên chúng.
Những công nghệ và ứng dụng này đang định hình cách người học
suy nghĩ và hành xử. Người học ngày nay sẵn sàng hơn bao giờ hết để tạo ra các
cộng đồng học tập trực tuyến và đóng vai trò tích cực trong các cộng đồng này.
Vì lý do đó, theo Brown (2002), học tập trong thời đại kỹ
thuật số mang tính xã hội cũng như nhận thức đối với người học ngày nay.
Đối với họ, học tập là khái niệm cụ thể hơn là trừu tượng và
nó được đan xen với khám phá và lý luận.
Các nền tảng kỹ thuật số không chỉ là nơi họ truy cập thông
tin và nguồn lực xã hội mà còn là nền tảng để học tập thông qua xây dựng kiến
thức xã hội.
Về vấn đề này, những người học vừa là người tiêu dùng vừa là
người sản xuất thông tin. Tuy nhiên, mối quan tâm ở một số khía cạnh cũng được
nêu ra.
Ví dụ, các chuyên gia lo ngại rằng người học không nhận thức
được các hậu quả đạo đức và pháp lý của các hành động và bài giảng trực tuyến của
họ.
Hơn nữa, Lonka (2015) kết luận rằng những sinh viên dễ bị
phân tâm và buồn chán nhất là những người sử dụng công cụ kỹ thuật số thành thạo
nhất.
Ngoài ra, theo Lonka, việc người học có thể sử dụng thành thạo
các công cụ và môi trường kỹ thuật số có thể không nhất thiết chuyển thành khả
năng sử dụng chúng cho mục đích giáo dục của họ.
Câu hỏi quan trọng ở đây là liệu những sinh viên này không
có kỹ năng sử dụng các công cụ và nền tảng kỹ thuật số cho mục đích giáo dục
hay liệu họ không chỉ đơn giản là được cung cấp cơ hội học hỏi bằng cách sử dụng
các công cụ này trong quá trình giáo dục của họ.
Điều chắc chắn là các phương pháp giảng dạy truyền thống
ngày nay không thu hút được người học.
Một thay đổi khác trong hồ sơ người học trong giáo dục đại học
thời đại kỹ thuật số là tính đa dạng hóa người học tăng lên.
Ngày nay, ngày càng có nhiều cá nhân lựa chọn theo học thêm
một bằng đại học hoặc đi học lại để lấy chứng chỉ, văn bằng sau đại học hoặc
khóa học trực tuyến do yêu cầu chuyên môn vì những kỹ năng họ có được trước đây
chỉ đơn giản là không đủ để thực hiện các nhiệm vụ trong công việc.
Hơn nữa, sự di chuyển của người học được tăng cường cho phép
nhiều cá nhân khác nhau từ các nền văn hóa và dân tộc khác nhau có thể gặp gỡ
nhau trong môi trường giáo dục.
Tất cả những động lực mới này chỉ ra rằng những người học với
các nhân khẩu học khác nhau như tuổi tác, kinh nghiệm, văn hóa và dân tộc,
phong cách và tốc độ học tập mang những đặc điểm riêng biệt của họ vào môi trường
học tập, điều này đặt ra những tiềm năng và thách thức học tập mới cho môi trường
học tập.
Tóm lại, cơ sở giáo dục đại học đang gặp phải những thách thức
nghiêm trọng về người học trong thời đại kỹ thuật số.
Các kỹ năng và kiến thức sinh viên cần có được ở trường đại
học đang thay đổi và phát triển thành cái gọi là kỹ năng thế kỷ 21.
Ngoài ra, các công cụ và nền tảng kỹ thuật số đang định hình
lại cách người học suy nghĩ và hành xử ngày nay, và họ bắt đầu học ở các cơ sở
giáo dục đại học với các bộ kỹ năng khác với các thế hệ trước. Tuy nhiên, một
thách thức khác là hồ sơ người học thay đổi do sự di chuyển của người học tăng
lên và người học quay lại giáo dục đại học.
Với cấu trúc và chức năng hiện tại, cơ sở giáo dục đại học
đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của hồ sơ người học
ngày nay.
Các nhà trường được khuyên nên phát triển các chính sách và
thực hành phù hợp với sự phát triển công nghệ kết nối kỹ thuật số hỗ trợ khả
năng của người học trong thời đại kỹ thuật số, tập trung vào các kỹ năng của thế
kỷ 21 để xem xét các hồ sơ người học đa dạng.
3. Người
hướng dẫn
Những tiến bộ trong công nghệ kết nối kỹ thuật số ở thế kỷ
21 gây ra một áp lực thay đổi khác trong vai trò và trách nhiệm của giảng viên
giáo dục đại học. Vai trò của giảng viên/người hướng dẫn trong bối cảnh giáo dục
đang thay đổi.
Những thập kỷ trước, khi người hướng dẫn là nhà cung cấp
thông tin và kiến thức duy nhất, thì nay đang mở đường cho thời đại mà thông
tin và kiến thức được phân phối trên các mạng kỹ thuật số có thể truy cập bất cứ
lúc nào và bất cứ nơi nào nếu có kết nối.
Điều này có nghĩa là người học hiện có cơ hội tiếp cận thông
tin và kiến thức không chỉ tại trường học nhờ người hướng dẫn, hoặc tại thư viện
nhờ sách in mà còn từ các kho kỹ thuật số, các trang web, phương tiện truyền
thông xã hội và các cộng đồng và mạng học tập trực tuyến.
Tóm lại, người học trong thời đại kỹ thuật số được tiếp cận
với nhiều nguồn tài nguyên trực tuyến và các chuyên gia tri thức khác nhau
thông qua các kết nối xã hội trực tuyến.
Tuy nhiên, vai trò của người hướng dẫn trong các cấu trúc giáo
dục đại học hiện nay là của người cung cấp thông tin. Tất cả những điều này ngụ
ý là không chỉ các nguồn thông tin và kiến thức mà nội dung cũng rất đa dạng.
Người học được tiếp xúc với thông tin đôi khi trái ngược với
thông tin được trình bày bởi người hướng dẫn.
Do đó, thông tin được cung cấp bởi người hướng dẫn liên tục
bị đặt câu hỏi và vai trò cung cấp thông tin là không đủ trong thời đại kỹ thuật
số.
Vì những lý do này, vai trò của những người hướng dẫn cần được
cấu trúc lại, chuyển từ thông tin cung cấp ‘hiền triết trên sân khấu’ sang ‘hướng
dẫn viên ở bên’.
Vai trò của người hướng dẫn cần là người thiết kế học tập,
nhà cung cấp bối cảnh và tài nguyên và là người hỗ trợ để phát triển các kỹ
năng bậc cao.
Trong khi thực hiện các vai trò mới được giao, người hướng dẫn
được yêu cầu tận dụng những đổi mới đặc biệt của thời đại kỹ thuật số như
phương tiện truyền thông xã hội, tài nguyên giáo dục mở, các khóa học mở trực
tuyến đại chúng, hệ thống quản lý học tập phức tạp, dữ liệu lớn, phân tích học
tập và học tập thích ứng.
Do đó, một trong những vai trò cơ bản của người hướng dẫn phải
là kỹ sư học tập, người thiết kế môi trường học tập hiệu quả và hấp dẫn nhằm giải
quyết các kỹ năng và đặc điểm của người học thế kỷ 21 thông qua việc sử dụng
các đổi mới kỹ thuật số.
Tuy nhiên, vai trò này không phải là của một kỹ thuật viên
viết mã nguồn và giải quyết các vấn đề kỹ thuật mà là của một trí thức cung cấp
cho người học bối cảnh học tập cá nhân hóa và đảm bảo chất lượng và đánh giá.
Để có thể thực hiện hiệu quả vai trò này, người hướng dẫn cần
phát triển các bộ kỹ năng mới trong thời đại kỹ thuật số.
Hiệp hội các trường Cao đẳng Sư phạm Hoa Kỳ (AACTE) và P21
đã xuất bản một báo cáo chung về các kỹ năng mà một giảng viên nên phát triển
trong thế kỷ 21 (AACTE & P21, 2010, trang 11-12) bao gồm:
- Kết hợp thành công các công nghệ với nội dung và phương
pháp sư phạm và phát triển khả năng sử dụng sáng tạo các công nghệ để đáp ứng
các nhu cầu học tập cụ thể,
- Điều chỉnh hướng dẫn với các chuẩn, đặc biệt là những chuẩn
của P 21;
- Kiến thức và kỹ năng thế kỷ,
- Cân bằng chiến lược giảng dạy trực tiếp với phương pháp giảng
dạy theo định hướng dự án,
- Áp dụng kiến thức phát triển trẻ em và thanh thiếu niên
vào việc chuẩn bị cho nhà giáo dục và chính sách giáo dục,
- Sử dụng một loạt các chiến lược đánh giá để đánh giá kết
quả học tập của sinh viên và phân biệt hướng dẫn (bao gồm nhưng không giới hạn ở
các phương pháp đào tạo, dựa trên danh mục đầu tư, được nhúng vào chương trình
học và tổng hợp),
- Tham gia tích cực vào các cộng đồng học tập; khai thác
chuyên môn trong một trường học hoặc khu học chánh thông qua huấn luyện, cố vấn,
chia sẻ kiến thức và giảng dạy theo nhóm,
- Làm cố vấn và huấn luyện viên đồng cấp với các nhà giáo dục
đồng nghiệp,
- Sử dụng một loạt các chiến lược (chẳng hạn như đánh giá
quá trình hình thành) để tiếp cận các sinh viên đa dạng và tạo ra môi trường hỗ
trợ việc dạy và học khác biệt,
- Theo đuổi các cơ hội học tập liên tục và coi việc học tập
lâu dài trong nghề nghiệp như một đạo đức nghề nghiệp.
Tóm lại, vai trò và trình độ của người hướng dẫn đang thay đổi
bên cạnh vai trò của người học vì vai trò chủ đạo của các công nghệ kết nối kỹ
thuật số trong thế kỷ 21.
Thay đổi chính trong vai trò của người hướng dẫn là chuyển từ
"người cung cấp thông tin" sang "người hỗ trợ học tập".
Sự thay đổi mô hình này đòi hỏi người hướng dẫn phải rời khỏi
chỗ ngồi cao của mình và tự mình đến ngồi cạnh người học cũng như phát triển
các kỹ năng mới.
Những gì các cơ sở giáo dục đại học cần làm trong bối cảnh
này là thực hiện các bước cần thiết để xác định vai trò mà người hướng dẫn cần
thực hiện và các kỹ năng mà họ cần phát triển và hành động để hỗ trợ người hướng
dẫn khi họ thực hiện các vai trò mới này.
Tuy nhiên, cấu trúc hiện tại của cá trường cao đẳng, đại học
không hỗ trợ các vai trò và kỹ năng mới này vì các kế hoạch đánh giá dựa trên
nghiên cứu không có khả năng cho phép chuyển đổi từ "giảng dạy" sang
"tạo điều kiện học tập".
4. Môi
trường học tập
Những hiểu biết mới nổi hiện nay về cách thức học tập diễn
ra cần được giải quyết trước khi giải quyết cách các đổi mới kỹ thuật số đang định
hình môi trường học tập và những thay đổi liên quan được quan sát thấy trong
môi trường học tập trong thời đại kỹ thuật số.
Các nhà khoa học đào tạo đang quan sát thấy sự thay đổi từ
cách học truyền thống thông qua các mô hình thu nhận thông tin sang các mô hình
xây dựng kiến thức hợp tác trong thời đại kỹ thuật số.
Trong thời đại này, cùng với sự thay đổi của sư phạm, học tập
không chính quy đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các hoạt động
học tập của cá nhân.
Vì lý do này, việc phát triển các thực hành văn hóa tập thể
cùng với cả cơ cấu tổ chức và vật chất để hỗ trợ xây dựng tri thức hợp tác trở
nên đặc biệt quan trọng đối với các cơ sở giáo dục.
Mặt khác, các trường cao đẳng, đại học hiện đang gặp khó
khăn trong việc cung cấp cơ cấu tổ chức và vật chất cần thiết cho các hoạt động
như vậy.
Colins và Halverson (2009) nhấn mạnh sự không phù hợp giữa
các đổi mới công nghệ và sư phạm và cấu trúc hiện tại của trường đại học, cao đẳng.
Theo họ, để nhận ra những thay đổi mong muốn trong môi trường
học tập, những cải cách dựa trên công nghệ sau đây cần được xem xét;
• Chuyển đổi từ học tập chuẩn hóa sang học tập cá nhân hóa:
Việc mỗi và mọi cá nhân phải học cùng một nội dung theo cùng một cách thức và
thời gian đang mâu thuẫn với bản chất của việc học tập của con người khi xét đến
sự khác biệt của từng cá nhân.
Mặt khác, một trong những lợi thế lớn nhất mà kỹ thuật số hiện
tại mang lại là sự cá nhân hóa vì những đổi mới này cho phép xác định phong
cách học tập, sở thích và xác định chính xác những thách thức và khó khăn mà mỗi
cá nhân đang gặp phải thông qua phân tích học tập và dữ liệu lớn được thu thập
trong suốt quá trình giáo dục.
Bằng cách này, có thể đưa ra quyết định sáng suốt và áp dụng
các thay đổi cần thiết cho trải nghiệm học sâu được thiết kế tùy chỉnh.
Nói tóm lại, việc tận dụng các khả năng do những công nghệ
này mang lại cho phép thiết kế các môi trường học tập thích ứng nhạy cảm với việc
học tập cá nhân.
• Chuyển từ đánh giá chuẩn hóa sang chuyên môn hóa: việc học
tập chuẩn hóa được đánh giá thông qua đánh giá chuẩn hóa bằng bài thi trắc nghiệm
ngụ ý rằng người học cần phải học cùng một nội dung.
Tuy nhiên, điều này không thành công trong việc hiện thực hóa
các kỹ năng của thế kỷ 21. Công nghệ kỹ thuật số giúp xác định xu hướng của người
học và cung cấp các công cụ đánh giá được cá nhân hóa.
• Chuyển đổi từ mô hình tri thức trong trí nhớ sang mô hình
tri thức trong nguồn lực bên ngoài: theo mô hình truyền thống, học tập hoàn
toàn có nghĩa là nội lực hóa mà không cần tham khảo các nguồn lực bên ngoài.
Do đó, khả năng nhớ lại thông tin của người học mà không cần
tham khảo sách, máy tính hoặc trang web được đánh giá.
Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày và nghề nghiệp, các cá
nhân phải giải quyết các vấn đề, tiếp cận các nguồn thông tin bên ngoài và thực
hiện một số nhiệm vụ.
Khả năng tiếp cận và sử dụng hiệu quả và hiệu quả các nguồn
lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng để họ có thể hoạt động hiệu quả trong đời
sống xã hội và nghề nghiệp trong thời đại kỹ thuật số.
• Chuyển từ mô hình bao quát nội dung sang mô hình khám phá
tri thức: trong mô hình trường học truyền thống, mục tiêu chính là truyền đạt tất
cả thông tin mà người học sẽ cần sau khi tốt nghiệp ra trường.
Chương trình học ngày càng trở nên căng thẳng và sách giáo
khoa dày hơn rất nhiều với kho tàng kiến thức ngày càng tăng.
Hầu như không thể bao quát tất cả thông tin và kiến thức mà
tương lai người học sẽ cần trong thời gian học tại trường do lượng thông tin và
kiến thức liên tục cập nhật liên tục ngày càng tăng theo cấp số nhân.
Vì vậy, người học cần phát triển các kỹ năng như tiếp cận
thông tin chân thực, cập nhật và cách học.
Chuyển từ học thông qua tiếp thu sang học bằng cách làm: mô
hình học tập truyền thống yêu cầu người học thu nhận thông tin, khái niệm, quy
trình, lý thuyết và công thức cụ thể.
Mặt khác, các công cụ kỹ thuật số giúp người học thực hiện
các nhiệm vụ có ý nghĩa dựa trên thực hành.
Vì lý do này, các công nghệ này cho phép tạo ra các môi trường
học tập phù hợp với mô hình vừa học vừa làm.
Những thay đổi sư phạm được kích hoạt bởi những đổi mới kỹ
thuật số nói trên đòi hỏi sự chuyển đổi từ không gian học tập một chiều (lớp học,
thư viện, phòng thí nghiệm) sang không gian học tập cộng tác đa chiều (vật lý, ảo
và trực tuyến).
Để có trải nghiệm học tập sâu sắc và có ý nghĩa trong thời đại
kỹ thuật số, việc tạo ra các môi trường học tập kết hợp bao gồm các kế hoạch
tham gia kỹ thuật số - xã hội sử dụng khả năng chi trả của các không gian kỹ
thuật số, di động, ảo, trực tuyến, xã hội và vật lý.
Nghiên cứu cho thấy rằng người học phát triển kết quả học tập
tốt hơn khi họ tiếp xúc với môi trường học tập kết hợp so với không gian học tập
đơn lẻ.
Dự đoán rằng chúng ta sẽ thấy nhiều môi trường học tập lai
ghép hơn được hỗ trợ bằng các công cụ cho phép cộng tác trực tuyến, phần mềm hỗ
trợ học tập thích ứng với từng cá nhân, hệ thống quản lý học tập tinh vi với
các ứng dụng học tập xã hội, trò chơi và mô phỏng trực tuyến và các ứng dụng
truyền thông xã hội.
Chúng ta cần tạo ra các môi trường học tập kết hợp tích hợp
các không gian vật lý, ảo, trực tuyến và kỹ thuật số và tận dụng đầy đủ khả
năng chi trả của từng không gian này, nhận thức được các tính năng miễn phí của
chúng để thiết kế những trải nghiệm học tập sâu sắc và có ý nghĩa mà không bị
ràng buộc về thời gian và địa điểm.
Theo ý kiến các chuyên gia, cũng cần phát triển thêm hiểu biết
về nền tảng nào hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ loại hình học tập thông qua loại
nội dung và hoạt động nào để có thể phát triển các chính sách và chiến lược
cung cấp thông tin cho những cải cách phản ánh thay đổi về cơ cấu và tổ chức
trong giáo dục đại học.
5. Quản
lý hành chính
Các cơ sở giáo dục đại học với vai trò sản xuất và phổ biến
kiến thức, tham gia vào việc định hướng những thay đổi xã hội do công nghệ kết
nối kỹ thuật số mang lại, đều bị ảnh hưởng bởi những thay đổi xã hội này.
Vai trò, trách nhiệm và chức năng của cơ sở giáo dục đại học
thay đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và độ tuổi mà họ hoạt động.
Ngày nay, các cơ sở giáo dục đại học được mong đợi sẽ thực
hiện một số vai trò bao gồm giáo dục các cá nhân đủ tiêu chuẩn cho thời đại tri
thức thông qua các trải nghiệm học tập hấp dẫn và hiệu quả.
Họ cũng được kỳ vọng sẽ dẫn đầu những tiến bộ công nghệ
thông qua nghiên cứu và phát triển với sự hợp tác của xã hội và công nghiệp,
qua đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội.
Những đổi mới kỹ thuật số trong thế kỷ 21 tác động đến người
học, người hướng dẫn và môi trường học tập cũng định hình lại các chức năng quản
trị của cơ sở giáo dục đại học.
Ví dụ, các công cụ mạng xã hội trực tuyến cho phép giữ liên
lạc thường xuyên với sinh viên tốt nghiệp, do đó việc thực hành phát triển nghề
nghiệp có thể được thực hiện sâu hơn sau khi tốt nghiệp.
Ngoài ra, hệ thống thông tin sinh viên làm cho sinh viên dễ
dàng hơn như đăng ký khóa học và tìm học bổng.
Thư viện số và hệ thống quản lý học tập cho phép người học
truy cập tài nguyên khóa học bất kể thời gian và không gian.
Tuy nhiên, trong khi các nhà trường tận dụng hiệu quả các
công nghệ kỹ thuật số về hỗ trợ hậu cần, các chính sách liên quan đến việc cung
cấp việc học sâu và ý nghĩa được hỗ trợ thông qua các công nghệ kết nối kỹ thuật
số không được phát triển theo yêu cầu.
Thời đại kỹ thuật số không chỉ ngụ ý việc sử dụng các thiết
bị công nghệ chỉ vì lý do hậu cần. Thời đại kỹ thuật số cũng cho thấy sự thay đổi
tư duy đối với việc thực hiện các kỹ năng của thế kỷ 21.
Lonka (2015) nhấn mạnh sự khác biệt giữa các chức năng quản
trị của trường đại học, cao đẳng năng lực kỹ thuật số và thực hành học tập
không chính quy của người học ngày nay.
Do đó, các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách giáo
dục đại học cần phải tăng cường hiểu biết của họ về cách các công nghệ học tập
định hình việc học tập trong thế kỷ 21 và tác động của những công nghệ này lên
tương tác giữa người học, người hướng dẫn và nguồn học tập.
Họ cũng được yêu cầu hợp tác với các nhà thiết kế và chuyên
gia học tập để thiết kế không gian học tập kết hợp hiệu quả cho việc học tập có
ý nghĩa sâu sắc.
Thất bại trong việc phát triển hỗ trợ chính sách, hành chính
và sư phạm sẽ cản trở việc thực hiện đầy đủ tiềm năng mà các công nghệ kỹ thuật
số sáng tạo có thể mang lại trong không gian giáo dục.
Ví dụ: máy tính xách tay được phân phối tại một trường trung
học ở Hoa Kỳ đã bị lấy lại bảy năm sau đó vì chúng không phục vụ cho việc học
và chúng làm gián đoạn quá trình học tập.
Trên khắp thế giới, và tại Thổ Nhĩ Kỳ, các máy tính bảng được
phân phối cho dự án FATIH được báo cáo là không phục vụ mục đích của nó.
Tuy nhiên, có báo cáo rằng ở Phần Lan, khả năng tiếp cận các
thiết bị kỹ thuật số là đủ nhưng thiếu hiểu biết về cách sử dụng các công cụ
này cho mục đích học tập.
Những ví dụ này từ các nơi khác nhau trên thế giới cho thấy
rằng nếu không có các chính sách hành chính, sư phạm và luật pháp bắt buộc thì
việc tích hợp các công nghệ đổi mới này vào không gian học tập có thể gây ra
thiệt hại hơn là lợi ích về mặt hỗ trợ việc học có ý nghĩa.
Do đó, khi hỗ trợ học tập thông qua các công nghệ kết nối kỹ
thuật số, trước tiên các cấu trúc và chức năng quản trị hiệu quả cần được phát
triển.
Tóm lại, các cơ sở giáo dục đại học cần sử dụng các công nghệ
kỹ thuật số không chỉ cho mục đích hành chính hậu cần mà còn như là công cụ sư
phạm để quản lý trải nghiệm học tập và phát triển các kỹ năng của thế kỷ 21 mà
người học cần phát triển để hoạt động tốt hơn trong xã hội.
Các nhà hoạch định chính sách và quản trị viên nhà trường
nên thực hiện các bước trong việc phát triển các chính sách đạo đức, hành chính
và sư phạm và các kế hoạch hành động để tích hợp các công cụ kỹ thuật số như
các tác nhân sư phạm trong không gian học tập.
Các trường cần nhìn thấy trước tương lai, lập kế hoạch trước
để thực hiện các bước quan trọng và quản lý cơ hội trong khi bắt đầu các cải
cách cần thiết.
6. Kết
luận và đề xuất
Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những đổi mới kỹ thuật số, các
lĩnh vực kinh tế - xã hội đang được định hình lại bằng các công nghệ kết nối kỹ
thuật số với quy mô chưa từng có trước đây để cho thấy rằng một kỷ nguyên mới
đang đến; Tương tự như tác động đến các lĩnh vực khác của cuộc sống, công nghệ
kỹ thuật số cũng đang tác động đến lĩnh vực giáo dục.
Ngoài khả năng truy cập, kết nối và tương tác do công nghệ kỹ
thuật số mang lại, thông tin ngày càng tăng theo cấp số nhân, thay đổi và đa dạng
hóa hồ sơ người học và những hiểu biết mới được phát triển về ý nghĩa của việc
học trong thời đại kỹ thuật số đòi hỏi các trường đại học, cao đẳng phải xem
xét lại cấu trúc và chức năng của họ vốn được phát triển từ nhiều thế kỷ trước.
Những tiến bộ hiện tại trong những lĩnh vực này cũng làm dấy
lên những nghi ngờ về việc liệu các nhà trường có hoạt động hiệu quả dựa trên
các mô hình cũ hay không.
Các công cụ và ứng dụng kỹ thuật số được cung cấp như giải
pháp cho những thách thức mà các trường phải đối mặt.
Nghiên cứu cho thấy rằng các môi trường học tập pha trộn
tích hợp môi trường kỹ thuật số, ảo, trực tuyến và vật lý sẽ hiệu quả hơn trong
việc cung cấp học sâu.
Trong thế kỷ 21, người ta nhận thấy rằng khi các kỹ năng mà
người học cần phát triển đang thay đổi thì vai trò và bộ kỹ năng mà người hướng
dẫn cần phải có.
Ngoài ra, sự đa dạng của các môi trường học tập mà người học
có thể xây dựng kiến thức cũng ngày càng tăng.
Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục đại học đang tụt hậu trong việc
đối phó với những thay đổi này do cơ cấu hành chính truyền thống của họ.
Các vai trò chủ đạo liên quan đến giảng dạy được phân bổ
trong thế kỷ 21 thông qua những phát triển mới như đào tạo từ xa, tài nguyên
giáo dục mở và các khóa học mở trực tuyến đại chúng, học tập trong công việc,
phương tiện truyền thông xã hội và học tập phi chính quy, hướng tới sự ra đời của
mô hình giáo dục đại học mới.
Hiệu quả tích lũy của những cách tiếp cận đổi mới này trong
thời đại kỹ thuật số là việc phân bổ việc học trên nhiều địa điểm khác nhau bên
ngoài lớp học vượt quá ranh giới vật lý và thời gian của nhà trường.
Ngày nay, việc học không dừng lại sau khi tốt nghiệp mà nó
kéo dài suốt cả cuộc đời của mỗi cá nhân.
Mặc dù các trường đại học, cao đẳng đánh giá những phát triển
này là tích cực, việc áp dụng và sử dụng thích hợp những đổi mới này bị cản trở
do các lý do như văn hóa tổ chức chặt chẽ, thiếu khuôn khổ sư phạm, lãnh đạo và
thiếu các chính sách và quy định pháp luật phù hợp.
Hơn nữa, các vấn đề tức thì liên quan đến sự phân tâm, gian
lận, đạo văn và hành vi sai trái đạo đức là một trong những lý do dẫn đến việc
chấp nhận muộn và không đúng cách.
Những thách thức về quản trị và chức năng hiện nay cũng đặt
ra các yếu tố cản trở khác trên con đường thực hiện các lợi ích giá trị gia
tăng. Những áp lực thay đổi được đề cập trước đây đang tác động lẫn nhau.
Tuy nhiên, chúng tác động đến bối cảnh học tập cả cá nhân lẫn
tập thể. Tất cả các công nghệ và phương pháp tiếp cận đổi mới này cần phải được
kết hợp với nhau theo cách thức chiến lược để có thể thực hiện một cuộc cải
cách toàn diện trong hệ thống giáo dục.
Mặc dù mô hình mới xuất hiện từ sức mạnh tổng hợp được tạo
ra bởi những đổi mới này mang dấu vết từ mô hình truyền thống, nó cũng sẽ thể
hiện những khác biệt sâu sắc về mô hình.
Để sự chuyển đổi này diễn ra có hệ thống, nhất quán và bền vững,
các chính sách vượt ra ngoài mô hình giảng dạy truyền thống và hỗ trợ mô hình học
tập trong mọi khía cạnh của giáo dục đại học cần phải được phát triển.
Nguồn:
Journal of Educational Technology &Online Learning;
Volume 2 │Issue 1│2019
Tài liệu
tham khảo
AAC&U. (2007). College learning for the new global
century. Washington, DC: the Association of American Colleges and
Universities. Retrieved from
https://www.aacu.org/sites/default/files/files/LEAP/GlobalCentury_final.pdf
AACTE & P21. (2010). 21st Century knowledge and skills
in education preparation. AACTE & P21.
http://www.p21.org/storage/documents/aacte_p21_whitepaper2010.pdf
AASL. (2007). Standards for the 21st-Century Learner.
Chicago: American Association of School Librarians.
http://www.ala.org/aasl/files/guidelinesandstandards/learningstandards/AASL_Learnin
gStandards.pdf
Brown, J. S. (2002). Growing Up Digital: How the Web Changes
Work, Education, and the Ways People Learn. The United States Distance Learning
Association, 16(2).
Collins, A., & Halverson, R. (2009). Rethinking
education in the age of technology: The digital revolution and the schools. New
York: Teachers College Press.
Doyle, A. (2016). Hard skills vs. soft skills. The balance.
Retrieved from https://www.thebalance.com/hard-skills-vs-soft-skills-2063780
Erdem, A. R. (2006). Dünyadaki yükseköğretimin değişimi.
Selçuk Üniversitesi Sosyal Bilimler Enstitüsü Dergisi (15), 299-314.
Glenn, M. (2008). The future of higher education: how
technology will shape learning. London: Economist Intelligence Unit.
Lonka, K. (2015). Innovative schools: Teaching &
learning in the digital era. Brussels:
European Union. Retrieved from
http://www.europarl.europa.eu/studies
Oblinger, D. G. (2008). Growing up with Google What it means
to education. Emerging technologies for learning, 3(1), 11-29.
P21. (2015). P21 Framework Definitions. Washington, DC: The
Partnership for 21st CenturyLearning. Retrieved from
http://www.p21.org/storage/documents/docs/P21_Framework_Definitions_New_Logo
_2015.pdf
Prensky, M. (2008). The role of technology in teaching and
the classroom. Educational Technology, 48(6 (Nov-Dec)), 1-3. Retrieved
https://pdfs.semanticscholar.org/046f/ac5c5739584836037cf4b8bbf025475e3306.pdf
Trilling, B., & Fadel, (2009). 21st century skills:
Learning for life in our times. San Francisco: John Wiley & Sons Inc.
Nguồn: Tạp chí điện tử Giáo dục Việt
Nam