Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh,

Phó trưởng ban Chính sách, AVU&C; Cố vấn chiến lươc nền tảng OFE

 

Chuyển đổi kỹ thuật số trong giáo dục đại học đang là chủ đề thời sự nóng bỏng trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

Đề tài này do nhóm chuyên gia của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh và Tiến sĩ Lê Đức Ngọc) bắt đầu viết dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Trần Hồng Quân từ đầu năm 2020 khi đại dịch Covid 19 căng thẳng.

Cho đến nay, nhóm nghiên cứu đang hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Toà soạn trân trọng giới thiệu bài viết mới nhất gửi về từ Singapore của Tiến sĩ Mai Văn Tỉnh, Phó trưởng Ban Chính sách của Hiệp hội giới thiệu về bức tranh chuyển đổi số và trách nhiệm của các trường đại học, cao đẳng trong quá trình đổi mới này.

Để mô tả tính chất đổi mới giáo dục đại học hoàn toàn khác biệt trong thời đại Kỹ thuật số đầu thế kỷ 21, bài viết có nhắc tới các Hiệp hội Đại học, Cao đẳng Hoa Kỳ, Hiệp hội Các trường Cao đẳng Sư phạm Hoa kỳ, Hiệp hội các thư viện và Hiệp hội các Đại học Mở ở Trung Đông.

Là cố vấn chiến luợc cho nền tảng Giáo dục biên giới Mở (OFE) nhúng trong công nghệ Blockchain 3.0, Tiến sĩ Tỉnh sắp tới sẽ giới thiệu nền tảng công nghệ Blockchain CSE30 là sản phẩm của các nhà khoa học Việt Nam, là cái mà nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới đang muốn tiếp cận để ứng dụng. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Tóm tắt

Vai trò chủ đạo mà công nghệ kết nối kỹ thuật số xuất hiện đầu thế kỷ 21 đang gây ra những thay đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực cuộc sống, nó báo hiệu rằng chúng ta đã bước sang một kỷ nguyên mới: thời đại kỹ thuật số.

Giáo dục là một trong những lĩnh vực cơ bản của cuộc sống được tái thiết kế để áp dụng cho bối cảnh đang thay đổi về ý nghĩa hoạt động của nó trong thời đại mới này.

Mô hình trường học dựa trên các điều kiện và yêu cầu thời đại công nghiệp dường như không đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của người học thế kỷ 21.

Các công nghệ kết nối kỹ thuật số mới nổi và những đổi mới giáo dục đã được kích hoạt bởi tài nguyên giáo dục mở (OER), khóa học mở trực tuyến đại chúng (MOOC) vv… đang phá vỡ các quy trình và cấu trúc học tập của thời đại công nghiệp, do đó nó là cấp bách để phát triển mô hình GD mới.

Những cải tiến mới này cho phép người học mở rộng việc học ra ngoài ranh giới cơ sở học tập truyền thống qua trải nghiệm học không chính quy phong phú bằng cách sử dụng cộng đồng trực tuyến trên các nền tảng mới như mạng xã hội và các công nghệ khác.

Đổi mới kỹ thuật số cũng giải phóng người học khỏi xiềng xích của thời gian để họ không chỉ truy cập mà còn tạo ra kiến thức thông qua tương tác và cộng tác xã hội.

Thời đại chúng ta đang sống đã chín muồi cho những thay đổi cơ bản chưa từng có và cơ hội cho giáo dục đại học.

Các nhà hoạch định chính sách giáo dục đại học cần phải suy nghĩ lại tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số, những thách thức và cơ hội mà chúng mang lại cho bối cảnh giáo dục trong khi phát triển các chính sách giá trị gia tăng trong giáo dục đại học.

Mục đích bài viết là cung cấp thông tin về bức tranh chuyển đổi kỹ thuật số của giáo dục đại học.

1. Giới thiệu

Công nghệ kết nối kỹ thuật số trong thế kỷ 21 đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực xã hội, kinh tế và chính trị.

Nó tạo ra những thay đổi đáng kể trong cách mọi người tương tác với nội dung, giao tiếp với nhau và hoạt động trong xã hội.

Ngoài việc gia tăng cách thức giao tiếp, công nghệ mới này đã gây ra những thay đổi mạnh mẽ trong cách mọi người tiếp cận thông tin.

Sách in và bách khoa toàn thư theo nghĩa truyền thống không phải là nơi nắm giữ thông tin duy nhất, mà thông tin hiện đang được phân phối trên mạng các công nghệ kỹ thuật số được kết nối cho phép truy cập mọi lúc mọi nơi ở bất kỳ chỗ nào có thể.

Tuy nhiên, sự chuyển đổi thực sự không nằm ở việc gia tăng và đa dạng hóa các cách tiếp cận thông tin, mà nằm ở việc tăng cơ hội cho các cá nhân đóng góp vào sản xuất nội dung và xây dựng kiến thức.

Ngày nay, mỗi cá nhân đều có tiềm năng không chỉ tiêu thụ mà còn sản xuất thông tin.

Thời đại chúng ta đang sống cho thấy những khác biệt cơ bản về cách thức hoạt động của toàn xã hội, trong đó thế giới được kết nối thông qua các phương tiện kỹ thuật số ở quy mô chưa từng có.

Trong thời gian ngắn, những công cụ kỹ thuật số đang kích thích những thay đổi mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, có thể gọi là, “kỷ nguyên số”.

Bản chất phức tạp và hỗn loạn của những thay đổi này bị áp lực bởi tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số đang phá vỡ các cấu trúc kinh tế-xã hội, tạo ra các quá trình chuyển đổi nhằm cố gắng phù hợp hơn với nhu cầu và yêu cầu của thời đại kỹ thuật số.

Điều tự nhiên mà các xã hội mong đợi là những thay đổi mang tính chuyển đổi trong lĩnh vực giáo dục để phục vụ tốt hơn những nhu cầu và đòi hỏi của xã hội trong thời đại mới này.

Các cơ sở giáo dục đại học, có vai trò riêng biệt trong việc sản xuất và phổ biến kiến thức, đã và đang phải chịu áp lực thay đổi mạnh mẽ hơn nhiều.

Do đó, sự cạnh tranh toàn cầu trong nền kinh tế tri thức được thúc đẩy bởi vai trò chủ đạo của các công cụ kết nối kỹ thuật số đang buộc các cơ sở giáo dục đại học phải đánh giá cấu trúc hiện tại của họ và đưa ra quyết định quyết liệt để cải thiện các cấu trúc này cho phù hợp hơn với nhu cầu và yêu cầu của thế kỷ 21.

Vậy những tiến bộ kỹ thuật số nào buộc các đại học, cao đẳng phải chuyển đổi và áp dụng cho thế kỷ 21?

Trong số các động lực cải cách cơ cấu giáo dục đại học, vai trò tiếp cận và phổ biến kiến thức đang chuyển dần khỏi giáo dục đại học; những nền tảng kỹ thuật số mang các phương án tương tác mới, các cách thức mới để thể hiện văn hóa, các đồ tạo tác liên quan và các giá trị của nó; hiệu ứng truyền thông xã hội; dữ liệu lớn và phân tích học tập; các khóa học MOOC và tài nguyên giáo dục mở; trò chơi giáo dục và sự tiến bộ của các nền tảng kỹ thuật số cho phép tăng cường tương tác và hợp tác giữa người hướng dẫn và người học.

Ngoài ra, các cơ sở giáo dục đại học đang phải đối mặt với những thách thức đặc biệt của thế kỷ 21 bao gồm hồ sơ người học thay đổi và đa dạng, tính di động của người học, học suốt đời và cạnh tranh thị trường với các nhà cung cấp giáo dục đại học mới đang tăng lên.

Những thay đổi về hành chính và cơ cấu mà cơ sở giáo dục đại học phải đối phó là có ba loại chính; 1) Thay đổi trong cung cấp dịch vụ và tài chính; 2) Thay đổi về quy trình hành chính; 3) Thay đổi trong mô hình Dạy và Học. Mặt khác, Erdem (2006) nhấn mạnh những thay đổi trong trách nhiệm của ba cấu trúc riêng biệt: chính phủ, xã hội và trường đại học.

Erdem (2006) cho rằng các mối quan hệ năng động giữa trường đại học và Nhà nước đã và đang trải qua những thay đổi do những tiến bộ trong thế kỷ 21 liên quan đến các yêu cầu trách nhiệm giải trình ngày càng tăng đối với nhà trường, tác động của công nghệ kỹ thuật số đối với việc cung cấp các dịch vụ giáo dục và thực hiện các hoạt động nghiên cứu, quốc tế hóa giáo dục đại học và gia tăng cạnh tranh toàn cầu.

Tuy nhiên, một thách thức khác mà các trường đang phải đối mặt hiện nay là nhà trường được coi là những doanh nghiệp có độ phức tạp cao cung ứng nguồn lực cho xã hội tri thức và kinh tế tri thức, tác động sâu sắc đến các quá trình nội bộ và quan hệ bên ngoài mà các trường đại học có với cộng đồng phi học thuật.

Các công cụ kỹ thuật số được coi là giải pháp cho những thách thức về cơ cấu và quản trị của các cơ sở giáo dục đại học.

Đó là các công cụ đào tạo từ xa, hệ thống quản lý học tập tinh vi, các công cụ mạng xã hội trực tuyến, thực tế ảo và tăng cường, OER và MOOC được coi là những đổi mới góp phần tạo cơ hội giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người, tiếp cận nội dung giáo dục chất lượng và hỗ trợ học tập suốt đời.

Mặt khác, chính những đổi mới đưa ra bởi các giải pháp này có thể trở thành thách thức lớn hơn nữa.

Những lý do cơ bản khiến những đổi mới này trở thành thách thức tiềm ẩn hơn nữa chính là tình trạng thiếu chính sách và kế hoạch phù hợp, phân bổ nguồn lực không đủ, thiếu nhân viên có trình độ để thiết kế hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật, yêu cầu cập nhật nhanh chóng và liên tục.

Các cơ sở giáo dục đại học cũng hành động miễn cưỡng khi cân nhắc việc tích hợp các đổi mới này vì các lo ngại như gây mất tập trung, đạo văn và gian lận.

Những lý do này cho thấy điều tối quan trọng là phải xem xét thách thức tiềm ẩn và cách đối phó với chúng với ngụ ý nói tới bối cảnh giáo dục hiện nay.

Như đã nêu ở trên, cơ sở giáo dục đại học đang trải qua nhiều áp lực thay đổi về quy trình cấu trúc và hành chính do kết quả đổi mới kỹ thuật số.

Ngày càng có nhiều cá nhân có nhu cầu tiếp cận nền giáo dục đại học phù hợp với sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số và những công nghệ này có tiềm năng giải quyết nhu cầu và tính đa dạng hồ sơ người học.

Do đó, các cơ sở giáo dục đại học cần thiết kế lại cấu trúc và hoạt động của mình để giữ được tiềm năng bên cạnh những thách thức do công nghệ kết nối kỹ thuật số mang lại.

Các trường cần xem xét lại sứ mệnh và tầm nhìn của mình để phù hợp với sự phát triển công nghệ kỹ thuật số cũng như tác động sư phạm và cấu trúc của những công nghệ này đối với không gian giáo dục.

Trong thế kỷ 21, các nhà trường cần cải thiện khả năng nghiên cứu và phát triển, khả năng cạnh tranh và tương tác giữa các khoa, bộ môn riêng biệt, năng lực đổi mới và giải quyết vấn đề.

Họ cũng được yêu cầu chuyển đổi thành các tổ chức có thể áp dụng kỹ thuật số, có năng suất khoa học và sáng tạo với tầm nhìn toàn cầu.

Để thực hiện tất cả những điều này, các nhà trường cần phải hòa nhập với xã hội đang hoạt động với tinh thần doanh nhân khởi nghiệp khi quản lý nguồn nhân lực và nguồn nhân lực của mình.

Thời đại chúng ta đang sống đã chín muồi cho những cơ hội và thay đổi cơ bản chưa từng có.

Do đó, các nhà hoạch định chính sách về giáo dục cần phải suy nghĩ lại tác động của công nghệ kết nối kỹ thuật số, những thách thức và cơ hội mà chúng mang lại cho bối cảnh giáo dục trong khi phát triển các chính sách giá trị gia tăng của giáo dục đại học.

Bài báo này đề cập đến người học, người hướng dẫn, môi trường học tập và các khía cạnh quản trị của cơ sở giáo dục đại học và cách các công nghệ kết nối kỹ thuật số đang tác động lên những khía cạnh này trong.

2. Người học

Một trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy các trường cao đẳng, đại học thay đổi là phải gắn liền với người học. Không chỉ dân số người học ngày càng tăng mà hồ sơ người học cũng thay đổi và đa dạng.

Ngày càng có nhiều cá nhân thích quay lại trường học sau khi tốt nghiệp vì những lý do như nhu cầu phát triển nghề nghiệp vì những phẩm chất có được ở những năm học tại nhà trường không đủ để giải quyết những vấn đề phải đối mặt trong cuộc sống nghề nghiệp ở thế kỷ 21.

Ngoài ra, những tiến bộ công nghệ đang làm thay đổi sâu sắc trình độ mà lực lượng lao động cần để phát triển hiện tại và tương lai; ước tính khoảng 65% trẻ em tiểu học ngày nay sẽ làm việc trong những công việc mà không tồn tại hiện nay (Şahin & Alkan, 2016).

Do đó, một trong những vấn đề quan trọng mà các cơ sở giáo dục đại học phải giải quyết là ý nghĩa của việc trở thành một cá nhân được giáo dục trong thế kỷ 21.

Những kỹ năng nào trong thế kỷ 21 người học cần có để hoạt động tốt hơn trong xã hội và thành công trong cuộc sống nghề nghiệp ở thời đại kỹ thuật số thay đổi nhanh chóng?

Đó là các kỹ năng học tập và đổi mới, kỹ năng thông tin, truyền thông và công nghệ cũng như kỹ năng sống và nghề nghiệp.

Nhiều tổ chức khác nhau như Hiệp hội Đối tác vì Học tập Thế kỷ 21 (P21), Hiệp hội các trường cao đẳng, đại học Hoa Kỳ (AAC&U), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hiệp hội Thủ thư Trường học Hoa Kỳ (AASL) đã công bố báo cáo nhấn mạnh các kỹ năng của thế kỷ 21.

Những kỹ năng mà người học cần phát triển để trở thành công dân trong thời đại kỹ thuật số là các kỹ năng cứng bao gồm các kỹ năng tiện ích công cụ, kể cả kiến thức kỹ thuật số và kỹ năng mềm đề cập đến tính linh hoạt, khả năng thích ứng và xử lý thông tin.

Mặc dù có những mô tả khác nhau về những kỹ năng của thế kỷ 21 là gì, những kỹ năng này được Trilling & Fadel (2009) phân thành ba loại chính và các loại phụ liên quan:

1) Kỹ năng Học tập và Đổi mới gồm kỹ năng tư duy phản biện và giải quyết vấn đề, giao tiếp và hợp tác, sáng tạo và đổi mới;

2) Các kỹ năng về Thông tin, Truyền thông và Công nghệ bao gồm hiểu biết về thông tin, hiểu biết về phương tiện truyền thông và hiểu biết về thông tin và truyền thông;

3) Kỹ năng sống và nghề nghiệp bao gồm tính linh hoạt và khả năng thích ứng, chủ động và tự định hướng, kỹ năng xã hội và đa văn hóa, năng suất và trách nhiệm giải trình, kỹ năng lãnh đạo và trách nhiệm.

Ngoài ba loại chính mà sáng kiến P21 đưa ra, AAC&U (2007) đã đề xuất các bộ kỹ năng mà người học tại các cơ sở giáo dục đại học cần phát triển, tuy có những điểm tương đồng cơ bản giữa các kỹ năng do P21 và AAC&U đề xuất, các kỹ năng của AAC&U được coi là phù hợp hơn vì được thiết kế đặc biệt cho giáo dục đại học.

Theo lý do này, khung Kết quả Học tập Thiết yếu bao gồm các kỹ năng của thế kỷ 21 do AAC&U đề xuất được trình bày dưới đây (AAC & U, 2007, tr. 3):

1. Kiến thức về Văn hóa Con người và Thế giới Vật lý và Tự nhiên thông qua nghiên cứu về khoa học và toán học, khoa học xã hội, nhân văn, lịch sử, ngôn ngữ và nghệ thuật;

2. Kỹ năng Trí tuệ và Thực hành bao gồm hỏi đáp và phân tích, tư duy phản biện và sáng tạo, giao tiếp bằng văn bản và bằng miệng, hiểu biết về định lượng, hiểu biết về thông tin, làm việc nhóm và giải quyết vấn đề;

3. Trách nhiệm cá nhân và xã hội bao gồm kiến thức và sự tham gia của công dân - địa phương và toàn cầu, kiến thức và năng lực liên văn hóa, lý luận và hành động đạo đức, nền tảng và kỹ năng để học tập suốt đời;

4. Học tập tích hợp bao gồm tổng hợp và thành tích nâng cao trong các nghiên cứu chung và chuyên ngành.

Câu hỏi đặt ra từ hai khung này là liệu cơ sở giáo dục đại học có được trang bị và cấu trúc phù hợp để phát triển các kỹ năng của thế kỷ 21 được đưa vào trong hai khung này hay không.

Các trường đại học, cao đẳng cần xem xét lại cấu trúc của mình bao gồm chương trình giảng dạy, môi trường học tập và hệ thống đánh giá.

Ngoài các kỹ năng của thế kỷ 21, hồ sơ của người học cũng đang thay đổi. Người học đã tích hợp các công cụ kỹ thuật số trong hầu hết những việc họ làm.

Các công cụ mà người học sử dụng một cách thuần thục trong cuộc sống hàng ngày của họ đã và đang định hình lại phong cách và thói quen học tập.

Vì vậy, người học bắt đầu vào học đại học với một tư duy khác với các thế hệ trước họ. Trong một nghiên cứu do Xerox thực hiện vào năm 2002 với một học sinh 15 tuổi, Brown đã phát hiện ra rằng người học ngày nay được trang bị các kỹ năng khác nhau như:

a. Đa xử lý đề cập đến khả năng đa nhiệm,

b. Điều hướng thông tin và hiểu biết về màn hình và hình ảnh bên cạnh khả năng hiểu biết về văn bản,

c. Không ngừng khám phá những điều mới khi duyệt các thư viện kỹ thuật số,

d. Học tại chỗ.

Người học ngày nay được bao quanh bởi máy tính (máy để bàn, máy xách tay và máy bảng), thiết bị di động (smart phone) và bởi các ứng dụng được cài đặt trên chúng.

Những công nghệ và ứng dụng này đang định hình cách người học suy nghĩ và hành xử. Người học ngày nay sẵn sàng hơn bao giờ hết để tạo ra các cộng đồng học tập trực tuyến và đóng vai trò tích cực trong các cộng đồng này.

Vì lý do đó, theo Brown (2002), học tập trong thời đại kỹ thuật số mang tính xã hội cũng như nhận thức đối với người học ngày nay.

Đối với họ, học tập là khái niệm cụ thể hơn là trừu tượng và nó được đan xen với khám phá và lý luận.

Các nền tảng kỹ thuật số không chỉ là nơi họ truy cập thông tin và nguồn lực xã hội mà còn là nền tảng để học tập thông qua xây dựng kiến thức xã hội.

Về vấn đề này, những người học vừa là người tiêu dùng vừa là người sản xuất thông tin. Tuy nhiên, mối quan tâm ở một số khía cạnh cũng được nêu ra.

Ví dụ, các chuyên gia lo ngại rằng người học không nhận thức được các hậu quả đạo đức và pháp lý của các hành động và bài giảng trực tuyến của họ.

Hơn nữa, Lonka (2015) kết luận rằng những sinh viên dễ bị phân tâm và buồn chán nhất là những người sử dụng công cụ kỹ thuật số thành thạo nhất.

Ngoài ra, theo Lonka, việc người học có thể sử dụng thành thạo các công cụ và môi trường kỹ thuật số có thể không nhất thiết chuyển thành khả năng sử dụng chúng cho mục đích giáo dục của họ.

Câu hỏi quan trọng ở đây là liệu những sinh viên này không có kỹ năng sử dụng các công cụ và nền tảng kỹ thuật số cho mục đích giáo dục hay liệu họ không chỉ đơn giản là được cung cấp cơ hội học hỏi bằng cách sử dụng các công cụ này trong quá trình giáo dục của họ.

Điều chắc chắn là các phương pháp giảng dạy truyền thống ngày nay không thu hút được người học.

Một thay đổi khác trong hồ sơ người học trong giáo dục đại học thời đại kỹ thuật số là tính đa dạng hóa người học tăng lên.

Ngày nay, ngày càng có nhiều cá nhân lựa chọn theo học thêm một bằng đại học hoặc đi học lại để lấy chứng chỉ, văn bằng sau đại học hoặc khóa học trực tuyến do yêu cầu chuyên môn vì những kỹ năng họ có được trước đây chỉ đơn giản là không đủ để thực hiện các nhiệm vụ trong công việc.

Hơn nữa, sự di chuyển của người học được tăng cường cho phép nhiều cá nhân khác nhau từ các nền văn hóa và dân tộc khác nhau có thể gặp gỡ nhau trong môi trường giáo dục.

Tất cả những động lực mới này chỉ ra rằng những người học với các nhân khẩu học khác nhau như tuổi tác, kinh nghiệm, văn hóa và dân tộc, phong cách và tốc độ học tập mang những đặc điểm riêng biệt của họ vào môi trường học tập, điều này đặt ra những tiềm năng và thách thức học tập mới cho môi trường học tập.

Tóm lại, cơ sở giáo dục đại học đang gặp phải những thách thức nghiêm trọng về người học trong thời đại kỹ thuật số.

Các kỹ năng và kiến thức sinh viên cần có được ở trường đại học đang thay đổi và phát triển thành cái gọi là kỹ năng thế kỷ 21.

Ngoài ra, các công cụ và nền tảng kỹ thuật số đang định hình lại cách người học suy nghĩ và hành xử ngày nay, và họ bắt đầu học ở các cơ sở giáo dục đại học với các bộ kỹ năng khác với các thế hệ trước. Tuy nhiên, một thách thức khác là hồ sơ người học thay đổi do sự di chuyển của người học tăng lên và người học quay lại giáo dục đại học.

Với cấu trúc và chức năng hiện tại, cơ sở giáo dục đại học đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của hồ sơ người học ngày nay.

Các nhà trường được khuyên nên phát triển các chính sách và thực hành phù hợp với sự phát triển công nghệ kết nối kỹ thuật số hỗ trợ khả năng của người học trong thời đại kỹ thuật số, tập trung vào các kỹ năng của thế kỷ 21 để xem xét các hồ sơ người học đa dạng.

3. Người hướng dẫn

Những tiến bộ trong công nghệ kết nối kỹ thuật số ở thế kỷ 21 gây ra một áp lực thay đổi khác trong vai trò và trách nhiệm của giảng viên giáo dục đại học. Vai trò của giảng viên/người hướng dẫn trong bối cảnh giáo dục đang thay đổi.

Những thập kỷ trước, khi người hướng dẫn là nhà cung cấp thông tin và kiến thức duy nhất, thì nay đang mở đường cho thời đại mà thông tin và kiến thức được phân phối trên các mạng kỹ thuật số có thể truy cập bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào nếu có kết nối.

Điều này có nghĩa là người học hiện có cơ hội tiếp cận thông tin và kiến thức không chỉ tại trường học nhờ người hướng dẫn, hoặc tại thư viện nhờ sách in mà còn từ các kho kỹ thuật số, các trang web, phương tiện truyền thông xã hội và các cộng đồng và mạng học tập trực tuyến.

Tóm lại, người học trong thời đại kỹ thuật số được tiếp cận với nhiều nguồn tài nguyên trực tuyến và các chuyên gia tri thức khác nhau thông qua các kết nối xã hội trực tuyến.

Tuy nhiên, vai trò của người hướng dẫn trong các cấu trúc giáo dục đại học hiện nay là của người cung cấp thông tin. Tất cả những điều này ngụ ý là không chỉ các nguồn thông tin và kiến thức mà nội dung cũng rất đa dạng.

Người học được tiếp xúc với thông tin đôi khi trái ngược với thông tin được trình bày bởi người hướng dẫn.

Do đó, thông tin được cung cấp bởi người hướng dẫn liên tục bị đặt câu hỏi và vai trò cung cấp thông tin là không đủ trong thời đại kỹ thuật số.

Vì những lý do này, vai trò của những người hướng dẫn cần được cấu trúc lại, chuyển từ thông tin cung cấp ‘hiền triết trên sân khấu’ sang ‘hướng dẫn viên ở bên’.

Vai trò của người hướng dẫn cần là người thiết kế học tập, nhà cung cấp bối cảnh và tài nguyên và là người hỗ trợ để phát triển các kỹ năng bậc cao.

Trong khi thực hiện các vai trò mới được giao, người hướng dẫn được yêu cầu tận dụng những đổi mới đặc biệt của thời đại kỹ thuật số như phương tiện truyền thông xã hội, tài nguyên giáo dục mở, các khóa học mở trực tuyến đại chúng, hệ thống quản lý học tập phức tạp, dữ liệu lớn, phân tích học tập và học tập thích ứng.

Do đó, một trong những vai trò cơ bản của người hướng dẫn phải là kỹ sư học tập, người thiết kế môi trường học tập hiệu quả và hấp dẫn nhằm giải quyết các kỹ năng và đặc điểm của người học thế kỷ 21 thông qua việc sử dụng các đổi mới kỹ thuật số.

Tuy nhiên, vai trò này không phải là của một kỹ thuật viên viết mã nguồn và giải quyết các vấn đề kỹ thuật mà là của một trí thức cung cấp cho người học bối cảnh học tập cá nhân hóa và đảm bảo chất lượng và đánh giá.

Để có thể thực hiện hiệu quả vai trò này, người hướng dẫn cần phát triển các bộ kỹ năng mới trong thời đại kỹ thuật số.

Hiệp hội các trường Cao đẳng Sư phạm Hoa Kỳ (AACTE) và P21 đã xuất bản một báo cáo chung về các kỹ năng mà một giảng viên nên phát triển trong thế kỷ 21 (AACTE & P21, 2010, trang 11-12) bao gồm:

- Kết hợp thành công các công nghệ với nội dung và phương pháp sư phạm và phát triển khả năng sử dụng sáng tạo các công nghệ để đáp ứng các nhu cầu học tập cụ thể,

- Điều chỉnh hướng dẫn với các chuẩn, đặc biệt là những chuẩn của P 21;

- Kiến thức và kỹ năng thế kỷ,

- Cân bằng chiến lược giảng dạy trực tiếp với phương pháp giảng dạy theo định hướng dự án,

- Áp dụng kiến thức phát triển trẻ em và thanh thiếu niên vào việc chuẩn bị cho nhà giáo dục và chính sách giáo dục,

- Sử dụng một loạt các chiến lược đánh giá để đánh giá kết quả học tập của sinh viên và phân biệt hướng dẫn (bao gồm nhưng không giới hạn ở các phương pháp đào tạo, dựa trên danh mục đầu tư, được nhúng vào chương trình học và tổng hợp),

- Tham gia tích cực vào các cộng đồng học tập; khai thác chuyên môn trong một trường học hoặc khu học chánh thông qua huấn luyện, cố vấn, chia sẻ kiến thức và giảng dạy theo nhóm,

- Làm cố vấn và huấn luyện viên đồng cấp với các nhà giáo dục đồng nghiệp,

- Sử dụng một loạt các chiến lược (chẳng hạn như đánh giá quá trình hình thành) để tiếp cận các sinh viên đa dạng và tạo ra môi trường hỗ trợ việc dạy và học khác biệt,

- Theo đuổi các cơ hội học tập liên tục và coi việc học tập lâu dài trong nghề nghiệp như một đạo đức nghề nghiệp.

Tóm lại, vai trò và trình độ của người hướng dẫn đang thay đổi bên cạnh vai trò của người học vì vai trò chủ đạo của các công nghệ kết nối kỹ thuật số trong thế kỷ 21.

Thay đổi chính trong vai trò của người hướng dẫn là chuyển từ "người cung cấp thông tin" sang "người hỗ trợ học tập".

Sự thay đổi mô hình này đòi hỏi người hướng dẫn phải rời khỏi chỗ ngồi cao của mình và tự mình đến ngồi cạnh người học cũng như phát triển các kỹ năng mới.

Những gì các cơ sở giáo dục đại học cần làm trong bối cảnh này là thực hiện các bước cần thiết để xác định vai trò mà người hướng dẫn cần thực hiện và các kỹ năng mà họ cần phát triển và hành động để hỗ trợ người hướng dẫn khi họ thực hiện các vai trò mới này.

Tuy nhiên, cấu trúc hiện tại của cá trường cao đẳng, đại học không hỗ trợ các vai trò và kỹ năng mới này vì các kế hoạch đánh giá dựa trên nghiên cứu không có khả năng cho phép chuyển đổi từ "giảng dạy" sang "tạo điều kiện học tập".

4. Môi trường học tập

Những hiểu biết mới nổi hiện nay về cách thức học tập diễn ra cần được giải quyết trước khi giải quyết cách các đổi mới kỹ thuật số đang định hình môi trường học tập và những thay đổi liên quan được quan sát thấy trong môi trường học tập trong thời đại kỹ thuật số.

Các nhà khoa học đào tạo đang quan sát thấy sự thay đổi từ cách học truyền thống thông qua các mô hình thu nhận thông tin sang các mô hình xây dựng kiến thức hợp tác trong thời đại kỹ thuật số.

Trong thời đại này, cùng với sự thay đổi của sư phạm, học tập không chính quy đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành các hoạt động học tập của cá nhân.

Vì lý do này, việc phát triển các thực hành văn hóa tập thể cùng với cả cơ cấu tổ chức và vật chất để hỗ trợ xây dựng tri thức hợp tác trở nên đặc biệt quan trọng đối với các cơ sở giáo dục.

Mặt khác, các trường cao đẳng, đại học hiện đang gặp khó khăn trong việc cung cấp cơ cấu tổ chức và vật chất cần thiết cho các hoạt động như vậy.

Colins và Halverson (2009) nhấn mạnh sự không phù hợp giữa các đổi mới công nghệ và sư phạm và cấu trúc hiện tại của trường đại học, cao đẳng.

Theo họ, để nhận ra những thay đổi mong muốn trong môi trường học tập, những cải cách dựa trên công nghệ sau đây cần được xem xét;

• Chuyển đổi từ học tập chuẩn hóa sang học tập cá nhân hóa: Việc mỗi và mọi cá nhân phải học cùng một nội dung theo cùng một cách thức và thời gian đang mâu thuẫn với bản chất của việc học tập của con người khi xét đến sự khác biệt của từng cá nhân.

Mặt khác, một trong những lợi thế lớn nhất mà kỹ thuật số hiện tại mang lại là sự cá nhân hóa vì những đổi mới này cho phép xác định phong cách học tập, sở thích và xác định chính xác những thách thức và khó khăn mà mỗi cá nhân đang gặp phải thông qua phân tích học tập và dữ liệu lớn được thu thập trong suốt quá trình giáo dục.

Bằng cách này, có thể đưa ra quyết định sáng suốt và áp dụng các thay đổi cần thiết cho trải nghiệm học sâu được thiết kế tùy chỉnh.

Nói tóm lại, việc tận dụng các khả năng do những công nghệ này mang lại cho phép thiết kế các môi trường học tập thích ứng nhạy cảm với việc học tập cá nhân.

• Chuyển từ đánh giá chuẩn hóa sang chuyên môn hóa: việc học tập chuẩn hóa được đánh giá thông qua đánh giá chuẩn hóa bằng bài thi trắc nghiệm ngụ ý rằng người học cần phải học cùng một nội dung.

Tuy nhiên, điều này không thành công trong việc hiện thực hóa các kỹ năng của thế kỷ 21. Công nghệ kỹ thuật số giúp xác định xu hướng của người học và cung cấp các công cụ đánh giá được cá nhân hóa.

• Chuyển đổi từ mô hình tri thức trong trí nhớ sang mô hình tri thức trong nguồn lực bên ngoài: theo mô hình truyền thống, học tập hoàn toàn có nghĩa là nội lực hóa mà không cần tham khảo các nguồn lực bên ngoài.

Do đó, khả năng nhớ lại thông tin của người học mà không cần tham khảo sách, máy tính hoặc trang web được đánh giá.

Tuy nhiên, trong cuộc sống hàng ngày và nghề nghiệp, các cá nhân phải giải quyết các vấn đề, tiếp cận các nguồn thông tin bên ngoài và thực hiện một số nhiệm vụ.

Khả năng tiếp cận và sử dụng hiệu quả và hiệu quả các nguồn lực bên ngoài đóng vai trò quan trọng để họ có thể hoạt động hiệu quả trong đời sống xã hội và nghề nghiệp trong thời đại kỹ thuật số.

• Chuyển từ mô hình bao quát nội dung sang mô hình khám phá tri thức: trong mô hình trường học truyền thống, mục tiêu chính là truyền đạt tất cả thông tin mà người học sẽ cần sau khi tốt nghiệp ra trường.

Chương trình học ngày càng trở nên căng thẳng và sách giáo khoa dày hơn rất nhiều với kho tàng kiến thức ngày càng tăng.

Hầu như không thể bao quát tất cả thông tin và kiến thức mà tương lai người học sẽ cần trong thời gian học tại trường do lượng thông tin và kiến thức liên tục cập nhật liên tục ngày càng tăng theo cấp số nhân.

Vì vậy, người học cần phát triển các kỹ năng như tiếp cận thông tin chân thực, cập nhật và cách học.

Chuyển từ học thông qua tiếp thu sang học bằng cách làm: mô hình học tập truyền thống yêu cầu người học thu nhận thông tin, khái niệm, quy trình, lý thuyết và công thức cụ thể.

Mặt khác, các công cụ kỹ thuật số giúp người học thực hiện các nhiệm vụ có ý nghĩa dựa trên thực hành.

Vì lý do này, các công nghệ này cho phép tạo ra các môi trường học tập phù hợp với mô hình vừa học vừa làm.

Những thay đổi sư phạm được kích hoạt bởi những đổi mới kỹ thuật số nói trên đòi hỏi sự chuyển đổi từ không gian học tập một chiều (lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm) sang không gian học tập cộng tác đa chiều (vật lý, ảo và trực tuyến).

Để có trải nghiệm học tập sâu sắc và có ý nghĩa trong thời đại kỹ thuật số, việc tạo ra các môi trường học tập kết hợp bao gồm các kế hoạch tham gia kỹ thuật số - xã hội sử dụng khả năng chi trả của các không gian kỹ thuật số, di động, ảo, trực tuyến, xã hội và vật lý.

Nghiên cứu cho thấy rằng người học phát triển kết quả học tập tốt hơn khi họ tiếp xúc với môi trường học tập kết hợp so với không gian học tập đơn lẻ.

Dự đoán rằng chúng ta sẽ thấy nhiều môi trường học tập lai ghép hơn được hỗ trợ bằng các công cụ cho phép cộng tác trực tuyến, phần mềm hỗ trợ học tập thích ứng với từng cá nhân, hệ thống quản lý học tập tinh vi với các ứng dụng học tập xã hội, trò chơi và mô phỏng trực tuyến và các ứng dụng truyền thông xã hội.

Chúng ta cần tạo ra các môi trường học tập kết hợp tích hợp các không gian vật lý, ảo, trực tuyến và kỹ thuật số và tận dụng đầy đủ khả năng chi trả của từng không gian này, nhận thức được các tính năng miễn phí của chúng để thiết kế những trải nghiệm học tập sâu sắc và có ý nghĩa mà không bị ràng buộc về thời gian và địa điểm.

Theo ý kiến các chuyên gia, cũng cần phát triển thêm hiểu biết về nền tảng nào hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ loại hình học tập thông qua loại nội dung và hoạt động nào để có thể phát triển các chính sách và chiến lược cung cấp thông tin cho những cải cách phản ánh thay đổi về cơ cấu và tổ chức trong giáo dục đại học.

5. Quản lý hành chính

Các cơ sở giáo dục đại học với vai trò sản xuất và phổ biến kiến thức, tham gia vào việc định hướng những thay đổi xã hội do công nghệ kết nối kỹ thuật số mang lại, đều bị ảnh hưởng bởi những thay đổi xã hội này.

Vai trò, trách nhiệm và chức năng của cơ sở giáo dục đại học thay đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và độ tuổi mà họ hoạt động.

Ngày nay, các cơ sở giáo dục đại học được mong đợi sẽ thực hiện một số vai trò bao gồm giáo dục các cá nhân đủ tiêu chuẩn cho thời đại tri thức thông qua các trải nghiệm học tập hấp dẫn và hiệu quả.

Họ cũng được kỳ vọng sẽ dẫn đầu những tiến bộ công nghệ thông qua nghiên cứu và phát triển với sự hợp tác của xã hội và công nghiệp, qua đó đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội.

Những đổi mới kỹ thuật số trong thế kỷ 21 tác động đến người học, người hướng dẫn và môi trường học tập cũng định hình lại các chức năng quản trị của cơ sở giáo dục đại học.

Ví dụ, các công cụ mạng xã hội trực tuyến cho phép giữ liên lạc thường xuyên với sinh viên tốt nghiệp, do đó việc thực hành phát triển nghề nghiệp có thể được thực hiện sâu hơn sau khi tốt nghiệp.

Ngoài ra, hệ thống thông tin sinh viên làm cho sinh viên dễ dàng hơn như đăng ký khóa học và tìm học bổng.

Thư viện số và hệ thống quản lý học tập cho phép người học truy cập tài nguyên khóa học bất kể thời gian và không gian.

Tuy nhiên, trong khi các nhà trường tận dụng hiệu quả các công nghệ kỹ thuật số về hỗ trợ hậu cần, các chính sách liên quan đến việc cung cấp việc học sâu và ý nghĩa được hỗ trợ thông qua các công nghệ kết nối kỹ thuật số không được phát triển theo yêu cầu.

Thời đại kỹ thuật số không chỉ ngụ ý việc sử dụng các thiết bị công nghệ chỉ vì lý do hậu cần. Thời đại kỹ thuật số cũng cho thấy sự thay đổi tư duy đối với việc thực hiện các kỹ năng của thế kỷ 21.

Lonka (2015) nhấn mạnh sự khác biệt giữa các chức năng quản trị của trường đại học, cao đẳng năng lực kỹ thuật số và thực hành học tập không chính quy của người học ngày nay.

Do đó, các nhà quản lý và các nhà hoạch định chính sách giáo dục đại học cần phải tăng cường hiểu biết của họ về cách các công nghệ học tập định hình việc học tập trong thế kỷ 21 và tác động của những công nghệ này lên tương tác giữa người học, người hướng dẫn và nguồn học tập.

Họ cũng được yêu cầu hợp tác với các nhà thiết kế và chuyên gia học tập để thiết kế không gian học tập kết hợp hiệu quả cho việc học tập có ý nghĩa sâu sắc.

Thất bại trong việc phát triển hỗ trợ chính sách, hành chính và sư phạm sẽ cản trở việc thực hiện đầy đủ tiềm năng mà các công nghệ kỹ thuật số sáng tạo có thể mang lại trong không gian giáo dục.

Ví dụ: máy tính xách tay được phân phối tại một trường trung học ở Hoa Kỳ đã bị lấy lại bảy năm sau đó vì chúng không phục vụ cho việc học và chúng làm gián đoạn quá trình học tập.

Trên khắp thế giới, và tại Thổ Nhĩ Kỳ, các máy tính bảng được phân phối cho dự án FATIH được báo cáo là không phục vụ mục đích của nó.

Tuy nhiên, có báo cáo rằng ở Phần Lan, khả năng tiếp cận các thiết bị kỹ thuật số là đủ nhưng thiếu hiểu biết về cách sử dụng các công cụ này cho mục đích học tập.

Những ví dụ này từ các nơi khác nhau trên thế giới cho thấy rằng nếu không có các chính sách hành chính, sư phạm và luật pháp bắt buộc thì việc tích hợp các công nghệ đổi mới này vào không gian học tập có thể gây ra thiệt hại hơn là lợi ích về mặt hỗ trợ việc học có ý nghĩa.

Do đó, khi hỗ trợ học tập thông qua các công nghệ kết nối kỹ thuật số, trước tiên các cấu trúc và chức năng quản trị hiệu quả cần được phát triển.

Tóm lại, các cơ sở giáo dục đại học cần sử dụng các công nghệ kỹ thuật số không chỉ cho mục đích hành chính hậu cần mà còn như là công cụ sư phạm để quản lý trải nghiệm học tập và phát triển các kỹ năng của thế kỷ 21 mà người học cần phát triển để hoạt động tốt hơn trong xã hội.

Các nhà hoạch định chính sách và quản trị viên nhà trường nên thực hiện các bước trong việc phát triển các chính sách đạo đức, hành chính và sư phạm và các kế hoạch hành động để tích hợp các công cụ kỹ thuật số như các tác nhân sư phạm trong không gian học tập.

Các trường cần nhìn thấy trước tương lai, lập kế hoạch trước để thực hiện các bước quan trọng và quản lý cơ hội trong khi bắt đầu các cải cách cần thiết.

6. Kết luận và đề xuất

Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng những đổi mới kỹ thuật số, các lĩnh vực kinh tế - xã hội đang được định hình lại bằng các công nghệ kết nối kỹ thuật số với quy mô chưa từng có trước đây để cho thấy rằng một kỷ nguyên mới đang đến; Tương tự như tác động đến các lĩnh vực khác của cuộc sống, công nghệ kỹ thuật số cũng đang tác động đến lĩnh vực giáo dục.

Ngoài khả năng truy cập, kết nối và tương tác do công nghệ kỹ thuật số mang lại, thông tin ngày càng tăng theo cấp số nhân, thay đổi và đa dạng hóa hồ sơ người học và những hiểu biết mới được phát triển về ý nghĩa của việc học trong thời đại kỹ thuật số đòi hỏi các trường đại học, cao đẳng phải xem xét lại cấu trúc và chức năng của họ vốn được phát triển từ nhiều thế kỷ trước.

Những tiến bộ hiện tại trong những lĩnh vực này cũng làm dấy lên những nghi ngờ về việc liệu các nhà trường có hoạt động hiệu quả dựa trên các mô hình cũ hay không.

Các công cụ và ứng dụng kỹ thuật số được cung cấp như giải pháp cho những thách thức mà các trường phải đối mặt.

Nghiên cứu cho thấy rằng các môi trường học tập pha trộn tích hợp môi trường kỹ thuật số, ảo, trực tuyến và vật lý sẽ hiệu quả hơn trong việc cung cấp học sâu.

Trong thế kỷ 21, người ta nhận thấy rằng khi các kỹ năng mà người học cần phát triển đang thay đổi thì vai trò và bộ kỹ năng mà người hướng dẫn cần phải có.

Ngoài ra, sự đa dạng của các môi trường học tập mà người học có thể xây dựng kiến thức cũng ngày càng tăng.

Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục đại học đang tụt hậu trong việc đối phó với những thay đổi này do cơ cấu hành chính truyền thống của họ.

Các vai trò chủ đạo liên quan đến giảng dạy được phân bổ trong thế kỷ 21 thông qua những phát triển mới như đào tạo từ xa, tài nguyên giáo dục mở và các khóa học mở trực tuyến đại chúng, học tập trong công việc, phương tiện truyền thông xã hội và học tập phi chính quy, hướng tới sự ra đời của mô hình giáo dục đại học mới.

Hiệu quả tích lũy của những cách tiếp cận đổi mới này trong thời đại kỹ thuật số là việc phân bổ việc học trên nhiều địa điểm khác nhau bên ngoài lớp học vượt quá ranh giới vật lý và thời gian của nhà trường.

Ngày nay, việc học không dừng lại sau khi tốt nghiệp mà nó kéo dài suốt cả cuộc đời của mỗi cá nhân.

Mặc dù các trường đại học, cao đẳng đánh giá những phát triển này là tích cực, việc áp dụng và sử dụng thích hợp những đổi mới này bị cản trở do các lý do như văn hóa tổ chức chặt chẽ, thiếu khuôn khổ sư phạm, lãnh đạo và thiếu các chính sách và quy định pháp luật phù hợp.

Hơn nữa, các vấn đề tức thì liên quan đến sự phân tâm, gian lận, đạo văn và hành vi sai trái đạo đức là một trong những lý do dẫn đến việc chấp nhận muộn và không đúng cách.

Những thách thức về quản trị và chức năng hiện nay cũng đặt ra các yếu tố cản trở khác trên con đường thực hiện các lợi ích giá trị gia tăng. Những áp lực thay đổi được đề cập trước đây đang tác động lẫn nhau.

Tuy nhiên, chúng tác động đến bối cảnh học tập cả cá nhân lẫn tập thể. Tất cả các công nghệ và phương pháp tiếp cận đổi mới này cần phải được kết hợp với nhau theo cách thức chiến lược để có thể thực hiện một cuộc cải cách toàn diện trong hệ thống giáo dục.

Mặc dù mô hình mới xuất hiện từ sức mạnh tổng hợp được tạo ra bởi những đổi mới này mang dấu vết từ mô hình truyền thống, nó cũng sẽ thể hiện những khác biệt sâu sắc về mô hình.

Để sự chuyển đổi này diễn ra có hệ thống, nhất quán và bền vững, các chính sách vượt ra ngoài mô hình giảng dạy truyền thống và hỗ trợ mô hình học tập trong mọi khía cạnh của giáo dục đại học cần phải được phát triển.

 

Nguồn:

Journal of Educational Technology &Online Learning; Volume 2 │Issue 1│2019

 

Tài liệu tham khảo

AAC&U. (2007). College learning for the new global century. Washington, DC: the Association of American Colleges and

Universities. Retrieved from https://www.aacu.org/sites/default/files/files/LEAP/GlobalCentury_final.pdf

AACTE & P21. (2010). 21st Century knowledge and skills in education preparation. AACTE & P21.

http://www.p21.org/storage/documents/aacte_p21_whitepaper2010.pdf

AASL. (2007). Standards for the 21st-Century Learner. Chicago: American Association of School Librarians.

http://www.ala.org/aasl/files/guidelinesandstandards/learningstandards/AASL_Learnin gStandards.pdf

Brown, J. S. (2002). Growing Up Digital: How the Web Changes Work, Education, and the Ways People Learn. The United States Distance Learning Association, 16(2).

Collins, A., & Halverson, R. (2009). Rethinking education in the age of technology: The digital revolution and the schools. New York: Teachers College Press.

Doyle, A. (2016). Hard skills vs. soft skills. The balance. Retrieved from https://www.thebalance.com/hard-skills-vs-soft-skills-2063780

Erdem, A. R. (2006). Dünyadaki yükseköğretimin değişimi. Selçuk Üniversitesi Sosyal Bilimler Enstitüsü Dergisi (15), 299-314.

Glenn, M. (2008). The future of higher education: how technology will shape learning. London: Economist Intelligence Unit.

Lonka, K. (2015). Innovative schools: Teaching & learning in the digital era. Brussels:

European Union. Retrieved from http://www.europarl.europa.eu/studies

Oblinger, D. G. (2008). Growing up with Google What it means to education. Emerging technologies for learning, 3(1), 11-29.

P21. (2015). P21 Framework Definitions. Washington, DC: The Partnership for 21st CenturyLearning. Retrieved from http://www.p21.org/storage/documents/docs/P21_Framework_Definitions_New_Logo _2015.pdf

Prensky, M. (2008). The role of technology in teaching and the classroom. Educational Technology, 48(6 (Nov-Dec)), 1-3. Retrieved https://pdfs.semanticscholar.org/046f/ac5c5739584836037cf4b8bbf025475e3306.pdf

Trilling, B., & Fadel, (2009). 21st century skills: Learning for life in our times. San Francisco: John Wiley & Sons Inc.

 

Nguồn: Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam