Đại tá, ThS Nguyễn Văn Tỵ
Trong
kỷ nguyên số hóa, giáo dục đại học (GDĐH) sẽ thay đổi sâu rộng từ môi trường
giáo dục, vai trò của người dạy, người học đến phương pháp dạy học. Hiện nay,
không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với thách
thức lớn về thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn, kỹ năng.
Cách mạng Công nghiệp lần
thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, mạnh mẽ, gây tác
động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong kỷ nguyên số hóa, giáo
dục đại học (GDĐH) sẽ thay đổi sâu rộng từ môi trường giáo dục, vai trò của
người dạy, người học đến phương pháp dạy học. Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà
nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với thách thức lớn về thiếu hụt
lao động trình độ cao, có chuyên môn, kỹ năng. Do đó, để đổi mới giáo dục đại
học, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, cần nâng cao nhận thức, đổi mới
tư duy về phát triển GDĐH; đổi mới chương trình và phương thức đào tạo; áp dụng
công nghệ vào quá trình giảng dạy; đổi mới mô hình liên kết giữa trường đại học
và doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý.
1.
Giáo dục đại học trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0
CMCN 4.0 dựa trên nền
tảng công nghệ số nhằm xây dựng thế giới siêu kết nối và tích hợp các công nghệ
thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất. Những công nghệ đột
phá, tiên tiến nhất hiện nay là Trí tuệ nhân tạo (AI); Dữ liệu lớn (Big Data);
Công nghệ in 3D; Xe tự lái; Người máy cao cấp; Internet kết nối vạn vật (IoT),
Công nghệ nano, Công nghệ vật liệu mới và cảm biến, Công nghệ sinh học... Thành
tựu của CMCN 4.0 đã được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống như: xây
dựng thành phố thông minh, nhà ở thông minh, hệ thống giao thông, bệnh viện,
nhà máy thông minh; tạo lập kết nối giữa các thiết bị, máy móc với nhau, thậm
chí giữa máy móc với con người.
CMCN 4.0 tạo cơ hội cũng
như đặt ra yêu cầu tất yếu phải xây dựng nền giáo dục 4.0. Theo đó, giáo dục
trở thành một hệ sinh thái mà mọi người có thể cùng học tập mọi lúc, mọi nơi
với các thiết bị được kết nối. Tổ chức giáo dục trở thành một hệ sinh thái tạo
sản phẩm sáng tạo mang tính cá thể, với kiến thức và năng lực đổi mới, sáng tạo
riêng của cá nhân.
Giáo dục 4.0 có sự thay
đổi lớn trong mục tiêu và cách thức đào tạo, chuyển từ truyền thụ kiến thức cho
số đông sang khai phóng tiềm năng, đồng thời trao quyền sáng tạo cho từng cá
nhân. Người dạy sẽ chuyển sang vai trò mới là người thiết kế, xúc tác, cố vấn
và tạo môi trường học tập. Với nội dung học tập được số hóa, người học sẽ có
một lộ trình học tập riêng, có thể lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu đào
tạo. Hệ thống học tập số hóa cũng cung cấp phản hồi về hiệu quả học tập cùng
với gợi ý cho các nội dung học tập tiếp theo.
Phạm vi tương tác trong
giáo dục 4.0 rất rộng lớn, khoảng cách về địa lý, không gian và thời gian bị
xóa nhòa. Môi trường giáo dục không chỉ diễn ra trong phạm vi nhà trường mà mở
rộng ra phạm vi toàn cầu. Người học có thể chủ động nghiên cứu tài liệu cũng
như tương tác với giảng viên ở mọi thời điểm bằng máy tính hoặc điện thoại
thông minh. Sự phát triển của các hình thức học trực tuyến giúp người học tiết
kiệm thời gian, công sức và chi phí. Công nghệ thực tế tăng cường/thực tế ảo
(AR/VR) được sử dụng rộng rãi, giúp người học trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng.
Trong giáo dục 4.0, nhờ
ứng dụng các công nghệ AI, Big Data và IoT, lãnh đạo nhà trường, giảng viên có
thể thu thập dữ liệu, phân tích và đánh giá chính xác về người học; theo dõi
quá trình học tập tại nhà, kiểm tra mức độ hoàn thành bài tập và thông báo kết
quả học tập tới sinh viên cũng như gia đình. Thậm chí công nghệ AI có thể thay
thế giảng viên ở một số khâu như điểm danh, chấm bài, soạn bài và hỗ trợ dạy
ngoại ngữ.
Hiện nay, các tập đoàn
công nghệ lớn đã cho ra đời nhiều thiết bị và phần mềm thông minh phục vụ giáo
dục. Chẳng hạn, Bộ công cụ giáo dục Google (G-Suite for Education) cung cấp
miễn phí bộ xử lý văn bản (Word), bảng tính (Sheet), trình chiếu (Slide). Ứng
dụng Tài liệu (Google Docs) giúp người học tạo và chỉnh sửa tài liệu trực
tuyến, miễn phí. Công nghệ Chroma Key tạo trường quay thu nhỏ để người học tự
sản xuất sản phẩm truyền thông. Công nghệ đám mây (Cloud) cung cấp những phần
mềm học tập trên Internet có sử dụng tài khoản...
Tuy nhiên, CMCN 4.0 cũng
đặt ra các thách thức không nhỏ trên bình diện toàn xã hội nói chung, GDĐH nói
riêng. Thị trường lao động có nguy cơ thay đổi hoàn toàn do robot dần thay thế
người lao động. Thống kê của Liên đoàn Robot quốc tế cho thấy, tốc độ robot hóa
trong lĩnh vực công nghiệp toàn cầu đang đạt ngưỡng rất nhanh, dẫn đầu là Hàn
Quốc với tỷ lệ 631 robot/ 10.000 lao động(1). Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự
báo, trong 2 thập niên tới, khoảng 56% số lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á,
trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì robot(2).
Việt Nam đang trở thành
quốc gia có tiềm năng phát triển công nghệ cao, với hàng triệu việc làm mới
trong lĩnh vực phần mềm. Tuy nhiên, khi tự động hóa dần thay thế nhân lực trong
nhiều lĩnh vực, người lao động chắc chắn cần thích ứng nhanh với sự thay đổi
của sản xuất. Do đó, trường đại học là nơi cung cấp nguồn nhân lực bậc cao cho
xã hội, cũng phải thay đổi toàn diện cả về mô hình, nội dung chương trình và
phương thức đào tạo.
Trong CMCN 4.0, tương tác
giữa các thiết bị và giữa thiết bị với con người sẽ tạo ra một hình thái sản
xuất mới. Một số kỹ năng mới sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với người lao động như:
kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, kỹ năng giao tiếp, cộng tác, sáng
tạo, đổi mới(3). Đây là đặc điểm quan trọng không những định hướng, làm thay
đổi chương trình đào tạo, hình thành chuyên ngành mới trong các trường đại học
mà còn đặt ra yêu cầu tất yếu phải “học tập suốt đời” đối với người lao động
trong CMCN 4.0.
Các hoạt động đào tạo và
nghiên cứu khoa học của các trường đại học cũng phải đối mặt với yêu cầu cải
cách và cạnh tranh mới trước sự phát triển của CMCN 4.0. Nhiều tập đoàn công
nghệ có tiềm lực khoa học, nhân lực và tài chính rất lớn, có lợi thế trong cuộc
chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống, có nhiều trải nghiệm
thực tế mà những nhà nghiên cứu, những giảng viên đại học không có. Bên cạnh đó,
tự do thương mại dịch vụ GDĐH toàn cầu tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường đại
học trong và ngoài nước trong thu hút sinh viên.
2.
Lợi thế của giáo dục đại học Việt Nam trong Cách mạng công nghiệp 4.0
Việt Nam có một lợi thế
lớn là sự phổ biến của điện thoại thông minh và mạng internet. Theo thống kê,
lượng người sử dụng internet năm 2018 đạt 64 triệu, chiếm 67% dân số. Việt Nam
có thể vào top 10 quốc gia có tỷ lệ người tiếp cận Internet cao nhất, với khoảng
80% dân số sử dụng internet trước năm 2020. Riêng mảng mạng xã hội, tính đến
tháng 1-2018, có tới 55 triệu người dùng, chiếm 57% dân số(4). Tỷ lệ người sử
dụng Internet trong dân số cao là một trong những điều kiện ban đầu giúp Việt
Nam tiếp cận giáo dục 4.0 nhanh hơn.
Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm đến giáo dục, đặc biệt trong bối cảnh khoa học, công nghệ phát triển
nhanh như vũ bão. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI,
đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế (4-11-2013). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cuộc cách mạng Công nghiệp
lần thứ tư (4-5-2017). Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng Đề án Hỗ trợ sinh
viên khởi nghiệp đến năm 2025; Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán
bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và
đào tạo giai đoạn 2019 - 2030; Chiến lược Phát triển tổng thể GDĐH giai đoạn
2021-2030, tầm nhìn 2035, làm cơ sở cho đổi mới, phát triển toàn diện và bền
vững trong dài hạn của hệ thống GDĐH.
Nhiều cuộc hội thảo về
CMCN 4.0 với giáo dục Việt Nam đã được tổ chức như: Hội thảo “Từ CMCN 4.0 đến
giáo dục 4.0 và mô hình khung 4Cs để chuyển đổi GDĐH thành hệ sinh thái tạo sản
phẩm sáng tạo” của Đại học Bách khoa Đà Nẵng; Hội thảo quốc tế ICTER 2018 “Đào
tạo giáo viên trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0” của trường Đại học
Sư phạm, Đại học Thái Nguyên; Hội thảo “Kỷ nguyên số hóa: Cơ hội và thách
thức” của trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội...
Nhiều đơn vị giáo dục đã
chủ động tiếp cận với các làn sóng công nghệ giáo dục mới để triển khai đào tạo
dựa trên các khóa học đại trà trực tuyến mở (MOOC), đưa AR và VR vào xây dựng
hệ thống học tập, hoặc triển khai các hệ thống học tập số hóa thông minh. Chẳng
hạn, trường Đại học Bách khoa đã đổi mới mô hình, chương trình đào tạo, cho
phép người học chủ động lựa chọn, tự lập kế hoạch, đăng ký học các học phần
trong chương trình tích hợp. Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh triển khai
số hóa với phần mềm quản lý hình ảnh Centricity Universal Viewer và Advanced
Visualization, cho phép cải thiện quy trình làm việc, giúp bác sĩ chẩn đoán và
thực hiện các báo cáo hiệu quả, chính xác hơn.
Nhiều trung tâm, trường
học đã xây dựng các lớp học trực tuyến. Học viện Apax Franklin (Hà Nội) đã kết
hợp mô hình dạy và học theo công nghệ 4.0, ứng dụng phương pháp kết hợp ba
trong một (Facetime - Apptime - Teamtime) ở bậc học phổ thông, phát triển năng
lực học sinh thông qua tương tác ở mọi thời điểm. Mô hình “Samsung Smart
school” (Lớp học thông minh) đã hình thành tại trường Đại học Y Dược, Đại học
Thái Nguyên, giúp việc tiếp thu kiến thức trở nên hấp dẫn và thú vị, khuyến
khích giao tiếp hai chiều giữa giảng viên và sinh viên. Mô hình này bao gồm
Giảng dạy tương tác (Interactive teaching) với các thiết bị thông minh, Quản lý
học tập (Class management) kết hợp với Phương pháp học tập theo nhóm
(Team-based learning).
Tuy nhiên, đến nay, hành
động và chiến lược cụ thể cho tiến trình công nghệ hóa giáo dục còn chậm. Việc
chuyển đổi số ở trường đại học mới chỉ ở bước đầu. Các trường đại học chưa tạo
được sự liên thông giữa chuẩn mực GDĐH trong nước và quốc tế. Chất lượng của
lực lượng lao động được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; thiếu các nghiên cứu khoa học đạt chất
lượng quốc tế từ các cơ sở GDĐH. Việc gắn kết giữa trường đại học với doanh
nghiệp trong đào tạo đại học hiện nay chưa chặt chẽ; sinh viên ra trường chưa
đáp ứng được ngay yêu cầu công việc.
3.
Một số giải pháp đổi mới giáo dục đại học trong Cách mạng công nghiệp 4.0
Một là, nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy về phát triển GDĐH
trong tổng thể chiến lược phát triển của quốc gia.
Để tận dụng hiệu quả cơ
hội cũng như vượt qua thách thức từ CMCN 4.0, các trường đại học cần nâng cao
nhận thức về tầm quan trọng của CMCN 4.0; về sự thay đổi của thị trường việc
làm; về sứ mạng của trường đại học trong chuẩn bị nguồn nhân lực bậc cao và
tham gia tái cơ cấu thị trường lao động.
Chiến lược phát triển
tổng thể GDĐH cần xác định vai trò then chốt trong việc cung cấp nguồn nhân lực
bậc cao và đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
đào tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng mềm, tư duy sáng
tạo, có khả năng thích nghi với sự thay đổi liên tục của thị trường lao động
toàn cầu. Với tầm nhìn dài hạn, hệ thống GDĐH phải tích cực đổi mới, sáng tạo;
hội nhập toàn diện với hệ thống GDĐH thế giới.
Cần nâng cao năng lực
quản lý nhà nước và quản trị đại học, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại
học; bảo đảm tài chính bền vững và tăng cường tính minh bạch. Tạo sự đồng thuận
của các cấp, các bộ ngành, các cơ sở đào tạo và các bên liên quan đến giáo dục
đại học. Tập trung rà soát, sửa đổi các quy định về trách nhiệm vai trò hội
đồng trường trong quản trị trường đại học; hướng dẫn và tăng cường giám sát
trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH; có cơ chế chính sách tạo điều kiện
và môi trường thuận lợi, tạo khung pháp lý cho mối quan hệ giữa cơ sở GDĐH và
doanh nghiệp.
Hai là, đổi mới mô hình, chương trình và phương thức đào tạo.
Mục tiêu đào tạo cần thay
đổi theo hướng thúc đẩy sáng tạo, phát triển năng lực cá nhân. Đào tạo theo
định hướng khởi nghiệp có thể triển khai theo mô hình “5 trong 1”, trong đó,
chuẩn đầu ra với nhiều kỹ năng mới của công dân 4.0 và 5 thành tố bao gồm: Có
nhiều chương trình đào tạo mới có tính liên ngành và xuyên ngành cao và nhiều chương
trình đào tạo gắn với công nghệ 4.0; Cấu trúc chương trình đào tạo mới; Công
nghệ đào tạo mới; Các dự án khởi nghiệp mới và Hệ sinh thái giáo dục khởi
nghiệp mới kết nối tất cả các bên liên quan: người dạy, người học, giảng đường,
phòng thí nghiệm và người sử dụng.
Thay vì giảng dạy một
chương trình chung, cần xây dựng nhiều chương trình khác nhau giúp cá nhân hóa
việc đào tạo; cần xác định rõ điểm mạnh, điểm yếu của từng người học để đưa ra
chương trình đào tạo riêng phù hợp. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các ngành
học mới (chẳng hạn, ngành trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu, ngành hội tụ ICT
thông minh), hệ thống giáo trình cũng cần thay đổi, cập nhật liên tục. Chú
trọng đào tạo các kỹ năng mới như: tìm kiếm thông tin; cập nhật phần mềm; tiếp
cận và lưu trữ dữ liệu; sử dụng các thiết bị cảm biến, làm việc cùng robot; sử
dụng công nghệ Blockchain; giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, sáng tạo; quản
lý nhân sự; làm việc nhóm...
Cần thay đổi tư duy dạy
và học theo phương pháp mới để người học vừa lĩnh hội được kiến thức, vừa biết
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Kết hợp giữa các phương pháp truyền thống
(thuyết trình, đàm thoại, luyện tập...) với các phương pháp mới (giải quyết vấn
đề, dạy học tình huống, dạy học định hướng hành động...). Đồng thời, vận dụng
các phương pháp gắn với công nghệ hiện đại như dạy học trực tuyến E-learning,
phương pháp giáo dục tích hợp khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (Giáo
dục STEM)...
Ba là, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số, đón đầu áp dụng công
nghệ mới.
Chuyển đổi số phải bảo
đảm 4 yếu tố, bao gồm: trao quyền cho giảng viên; tương tác với sinh viên; tối
ưu hóa tổ chức và đổi mới phương pháp. Quá trình chuyển đổi số ở trường đại học
diễn ra ở cả ba giai đoạn, bao gồm: lập kế hoạch; xây dựng chiến lược một cách độc
lập và thực hiện các đổi mới sáng tạo; giám sát tác động của việc triển khai
công nghệ.
Hiện nay, có rất nhiều
công cụ cho chuyển đổi số như: công cụ hội nghị truyền hình Skype, GoToMeeting,
Blue jeans; ứng dụng đàm thoại, chia sẻ tài nguyên Microsoft Teams; ứng dụng
OneNote; Stream; ứng dụng phân tích người đọc Reader Analytics; tra từ điển
Tflat; App hỗ trợ vẽ mindmap (Mindnode, Simplemind); dịch vụ trực tuyến Wolfram
Alpha; công cụ Power BI và các Hệ thống quản lý học tập Blackboard, WebCT,
Desire2Learn, ANGEL, Sakai, Moodle... Các trường đại học cần áp dụng công nghệ
mới, sử dụng các công cụ đa năng như máy tính, máy chiếu, bài giảng điện tử,
bảng điện tử thông minh, sách giáo khoa điện tử, nhất là các phần mềm dạy học
(E-learning...). Theo đó, việc tổ chức lớp học, giao bài tập, giới hạn thời
gian, kiểm tra bài, cung cấp tài liệu, nhận phản hồi, điều chỉnh hoạt động của
sinh viên... đều được thao tác trên máy.
Xây dựng các mô hình
trường quay thu nhỏ sử dụng công nghệ mới, các phòng học ảo, phòng thí nghiệm
ảo, thiết bị ảo, thư viện ảo... dưới sự hỗ trợ của các thiết bị thông minh.
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ AI, nhất là trong tổng hợp thông tin học tập, các
gợi ý hữu ích cho người học và người dạy, tạo điều kiện cho người học tiếp cận
giáo trình chuẩn hóa theo từng cá nhân, trong đánh giá năng lực và nhu cầu của
người học, hoặc sử dụng để khắc phục sự thiếu hụt đội ngũ giảng viên (chẳng hạn
dạy ngoại ngữ).
Bốn là, đổi mới mô hình kết nối giữa trường đại học và doanh
nghiệp.
Cần thiết lập mô hình
tổng thể ở cấp độ cao trên cơ sở thiết lập một khuôn mẫu gắn kết chung với
nhiều hình thức trong một hệ thống chặt chẽ, có thể tương tác và hỗ trợ nhau.
Trường đại học vừa đào tạo, vừa chuyển giao công nghệ hoặc gắn kết vừa đào tạo,
vừa nghiên cứu và triển khai. Từ mô hình tổng thể này, thiết lập mô hình cụ
thể, riêng rẽ, như gắn kết theo hình thức đào tạo đại học vừa học, vừa làm; đào
tạo lý thuyết ở trường đại học, thực tập kỹ năng tại doanh nghiệp; đào tạo theo
đơn đặt hàng của doanh nghiệp; mở rộng giảng đường đào tạo từ đại học đến doanh
nghiệp... Cơ chế và chính sách phải lấy chất lượng đào tạo làm cầu nối gắn kết
theo nguyên tắc thị trường, nhất là thị trường lao động và trên cơ sở hài hòa,
chia sẻ lợi ích các bên; thiết lập thể chế quản trị mô hình gắn kết giữa trường
đại học với doanh nghiệp (đánh giá kết quả đầu ra; sự phản hồi từ doanh
nghiệp...).
Coi trọng việc đưa giảng
viên trường đại học đi thực tế tại doanh nghiệp để bổ sung, cập nhật kiến thức,
công nghệ, nâng cao kỹ năng nghề, phương pháp giảng dạy và sử dụng giảng viên
kiêm nhiệm của doanh nghiệp, hoặc trí thức hóa các giảng viên từ doanh nghiệp
để sử dụng trong trường đại học; tăng cường tương tác giữa giảng viên và doanh
nghiệp; thiết kế các khóa đào tạo chuyên biệt theo yêu cầu của doanh nghiệp đặt
hàng hoặc tăng cường sự tham gia của doanh nghiệp đối tác vào xây dựng chương
trình, giáo trình; đầu tư kết cấu hạ tầng đào tạo đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp.
Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý.
Đẩy mạnh thực hiện Đề án
Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở GDĐH đáp ứng yêu
cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030. Theo
đó, tiến hành khảo sát, đánh giá khả năng đào tạo giảng viên của các cơ sở
GDĐH; xác định các lĩnh vực, ngành, chuyên ngành trọng tâm cần ưu tiên đào tạo;
công bố danh sách và thông tin về các trường đại học có chất lượng tốt, tạo
điều kiện cho người học chọn lựa, chủ động trong học tập và nghiên cứu; tạo
thuận lợi cho các cơ sở GDĐH trong nước liên kết, hợp tác đào tạo.
Bảo đảm tính tự chủ của
cơ sở GDĐH trong công tác tuyển chọn, xét duyệt giảng viên đủ điều kiện đào tạo
tiến sĩ, thạc sĩ. Kiểm soát chặt chẽ các khâu nghiệm thu, đánh giá luận án,
luận văn, công nhận, cấp phát bằng, bảo đảm chất lượng đầu ra. Có chính sách
thu hút các nhà khoa học, người có trình độ, đủ tiêu chuẩn làm giảng viên tại
các cơ sở GDĐH.
Tổ chức biên soạn chương
trình, tài liệu bồi dưỡng nâng cao năng lực quản trị đại học đối với cán bộ
quản lý chủ chốt gồm chủ tịch hội đồng trường, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng (và
tương đương) và đội ngũ cán bộ quản lý cấp đơn vị trực thuộc của các cơ sở
GDĐH. Tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực quản trị đối với cán bộ quản
lý chủ chốt và đội ngũ cán bộ quản lý cấp đơn vị trực thuộc của các cơ sở GDĐH.
Sáu là, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về đào tạo.
Hợp tác và hội nhập quốc
tế tạo cơ hội cho sinh viên tham gia các chương trình trao đổi hoặc du học tại
chỗ và được tự do phát triển cá nhân; cho phép giảng viên học hỏi phương pháp
điều hành và giáo dục từ các trường đại học quốc tế và giúp đối tác hiểu về
GDĐH ở Việt Nam; tạo ra các cơ hội hợp tác nghiên cứu khoa học xuyên quốc gia;
cải thiện chất lượng theo hướng tiếp cận tiêu chuẩn khu vực/quốc tế trong quản
lý, đào tạo, nghiên cứu, đồng thời có thể tạo ra nguồn lao động cạnh tranh,
vươn tới xuất khẩu lao động trình độ cao.
Các hoạt động hợp tác
quốc tế nên được định hướng và tổ chức từ cấp quản lý hàng đầu và mang tính kế
hoạch ở quy mô toàn trường, chứ không chỉ là chức năng của phòng, ban Hợp tác
quốc tế như hiện nay. Với tính tự chủ cao, các khoa trong trường đại học cần
chủ động trong việc tổ chức các hình thức hợp tác và hội nhập quốc tế theo
chiến lược do Ban Giám hiệu đề xuất.
Ngoài các giải pháp trên,
trường đại học cần quan tâm đến bảo mật giáo dục, tìm kiếm biện pháp bảo mật
thông tin nhờ sự trợ giúp của công nghệ AI và các chuyên gia về An toàn thông
tin để kiểm soát các mối đe dọa tiềm tàng.
_________________
(1) Chuyên mục Người quan sát, Kênh truyền hình Quốc phòng Việt Nam, ngày
10-2-2019.
(2) “Robot cướp việc” đang xuất hiện nhiều nơi ở Việt Nam, https://vtc.vn.
(3) Chuẩn bị cho thế hệ trẻ những công việc của tương lai,
https://vnexpress.net.
(4) Các số liệu thống kê internet Việt Nam năm 2018, https://www.dammio.com.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính
trị