Quá trình hình
thành và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam và tổ chức Công đoàn Việt Nam
luôn gắn liền với những chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc. Trải qua các
thời kỳ lịch sử cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành chính quyền cũng như
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn Việt
Nam luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu cùng với nhân dân cả nước viết nên trang
sử vẻ vang, truyền thống hào hùng của dân tộc, xứng đáng là giai cấp tiên
phong, lãnh đạo trong mỗi thời kỳ cách mạng.
SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
Theo dòng lịch
sử, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời gắn liền với hai cuộc khai thác thuộc điạ
của thực dân Pháp. Ngày 01/9/1858 Pháp dùng vũ lực xâm lược nước ta và tiến
hành kế hoạch khai thác thuộc điạ để bóc lột sức người và sức của của nhân dân
Việt Nam. Từ năm 1897 đến năm 1914 thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc
địa lần thứ nhất. Chúng tập trung đầu tư vào các ngành chủ yếu như đường sắt, hầm
mỏ, một số xí nghiệp, đồn điền…Theo đó, đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914), công nhân Việt Nam có hơn 5 vạn người.
Sau chiến
tranh thế giới thứ nhất chúng tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 -
1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột để bù đắp lại những tổn thất chiến tranh.
Thực dân Pháp tập trung đầu tư vào phát triển một số ngành khai khoáng, giao
thông vận tải, đồn điền, công nghiệp chế biến, dệt… Đến cuối năm 1929, công
nhân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp hơn 22 vạn người.
Trong đó chưa kể những người làm ở xí nghiệp nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi
bếp, khuân vác ở hải cảng…
Trước sự vơ
vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân lao động, trước hết là nông
dân bị phá sản, bần cùng. Nhiều cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước của
nhân dân ta và các phong trào đấu tranh của công nhân liên tiếp diễn ra nhưng đều
bị thất bại. Trước tình hình đó, ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn
Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Qua nghiên cứu phong trào công nhân của
nhiều nước ở Châu Âu và nghiên cứu phong trào đấu tranh của Công đoàn các nước
thuộc địa, trong cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp, Người viết: "Việc
cần thiết hiện nay là phát động một cuộc tuyên truyền lớn để thành lập các tổ
chức Công đoàn ở các nước thuộc điạ, nửa thuộc địa và phát triển Công đoàn hiện
có dưới hình thức phôi thai". Và đặc biệt trong cuốn Đường Cách Mệnh, Người
viết: "Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm
tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công
nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân; năm là
giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới". Đồng thời, Người còn khẳng định:
"Công hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ
nghĩa".
Để truyền bá
tư tưởng của mình và chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào công nhân, phong
trào yêu nước, tháng 6/1925 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung quốc) tổ
chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đào tạo nhiều thanh niên yêu nước.
Trên cơ sở đó, từ năm 1925 -1929, nhiều cán bộ của thanh niên cách mạng đồng
chí Hội đã trở về nước và hoạt động trong phong trào công nhân, nhờ đó mà phong
trào công nhân và tổ chức Công hội phát triển mạnh ở Bắc kỳ, Nam kỳ và Trung kỳ.
Đến giữa năm
1929 tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội không thể đảm đương nổi
vai trò lãnh đạo phong trào công nhân cũng như phong trào cách mạng cả nước. Do
đó, trong tổ chức "Thanh niên cách mạng đồng chí Hội" hình thành 3 tổ
chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Đảng ở Bắc kỳ (6/1929), An Nam cộng sản Đảng
ở Nam kỳ (10/1929) và Đông Dương cộng sản Liên đoàn (1/1930) ở Trung kỳ.
Sự ra đời của
3 tổ chức Đảng đó bước đầu đã đáp ứng được những đòi hỏi của phong trào cách mạng
và phong trào công nhân cả nước. Ở miền Bắc trên cơ sở Công hội ở các xí nghiệp,
hầm mỏ, đồn điền, Đông dương cộng sản Đảng đã tổ chức thành hệ thống Công hội từ
cơ sở đến liên tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định. Trước
yêu cầu của cách mạng, để đẩy mạnh hơn nữa công tác công vận và tăng cường sức
mạnh cho Công hội đỏ, Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông dương cộng sản Đảng
đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Đức Cảnh Uỷ viên BCH lâm thời, triệu tập Đại hội
thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc kỳ. Và ngày 28/7/1929, tại nhà số 15 Hàng nón -
Hà Nội, Đại hội Công hội đỏ chính thức được tổ chức. Đại hội đã bầu BCH lâm thời
Tổng Công hội đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đứng đầu. Đại hội đã thông qua
chương trình Điều lệ và ra "Báo Lao động" cùng tạp chí "Công hội
đỏ" làm cơ quan ngôn luận của mình. Từ đây, tổ chức Công hội đỏ đầu tiên của
giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng Sản sáng lập đã chính thức ra đời.
Có thể nói Đại
hội thành lập Công hội đỏ Bắc kỳ là một mốc son chói lọi có ý nghĩa to lớn
trong tiến trình lịch sử phát triển của phong trào công nhân và Công đoàn Việt
Nam. Đây là kết quả tất yếu của phong trào vận động công nhân và truyền bá lý
luận Công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đảng viên cộng sản
vào phong trào công nhân nước ta. Đây cũng là thắng lợi của đường lối công vận
Đảng ta. Tổng Công hội đỏ miền Bắc ra đời đáp ứng yêu cầu bức thiết của phong
trào công nhân đang phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự trưởng thành của GCCN Việt
Nam, đó là bước ngoặt về sự chuyển biến từ tự phát lên tự giác của giai cấp
công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX.
Lần đầu tiên
trong lịch sử, giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể cách mạng rộng lớn của
mình, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí nguyện vọng của đông
đảo công nhân, lao động. Chính vì vậy mà theo đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày
28/7/1929 làm ngày truyền thống của Công đoàn Việt Nam.
CÔNG ĐOÀN
TRONG ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP 1930-1945
Ngay sau khi
ra đời, Công hội đỏ đã cùng giai cấp công nhân, lao động tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh sôi nổi và liên tục của nhân dân ta nhằm giành độc lập dân tộc,
tiêu biểu là phong trào đấu tranh của hơn 60.000 công nông Vinh, Nghệ An, Hà
Tĩnh và phong trào đấu tranh của hàng chục vạn công nhân cả nước năm 1938. Trước
suốt thời gian 1930 -1945 dù có tên gọi khác nhau (Hội công nhân phản đế, Hội
công nhân cứu quốc), hoạt động có lúc bí mật, lúc công khai, dù chưa có điều kiện
thống nhất trong cả nước, nhưng dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Cộng sản
Đông Dương, Công đoàn Việt Nam thực sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao
động Việt Nam, không bị chia rẽ bởi các trào lưu cơ hội, hữu khuynh của Công
đoàn tay sai của Pháp ở Sài Gòn. Từ 6.000 đoàn viên năm 1930, số đoàn viên đã
lên 20.000 năm 1945 đã đóng vai trò quan trọng trong việc giành chính quyền ở
các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp trong thời kỳ cách mạng tháng 8 năm
1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
CÔNG ĐOÀN
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP 1945-1954
Sau cách mạng
tháng 8 thắng lợi, đất nước ta phải đương đầu với nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại
xâm lăm le tiếp tục xâm chiếm nước ta. Trước tình hình đó, tháng 3/1946, tổ chức
Công đoàn được thống nhất về mặt tổ chức trong phạm vi cả nước. Ngày 20/6/1946,
Hội công nhân cứu quốc chính thức đổi tên thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam và đến năm 1949 Tổng LĐLĐ Việt Nam được Liên hiệp Công đoàn thế giới công
nhận là thành viên chính thức. Tháng 01/1950, Đại hội lần thứ nhất Công đoàn Việt
Nam được triệu tập. Nhiều phong trào thi đua được phát động như "Thi đua sản
xuất", "Thi đua cải tiến kỹ thuật", "Thi đua xây dựng",
"Cải tiến phát huy sáng kiến", "Trao đổi nghề nghiệp" được
đông đảo công nhân hưởng ứng. Đã vận chuyển hơn 40.000 tấn máy móc lên chiến
khu, thành lập 57 cơ sở sản xuất mới, trong đó Tổng Liên đoàn trực tiếp điều
hành 3 xưởng. Đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Công đoàn đã huy động
20.991 xe đạp thồ, 11.800 thuyền, mảng, ca nô, 500 ngựa thồ, 261.451 dân công vận
tải. Trong các vùng tạm bị địch chiếm đóng, các Công đoàn bí mật vẫn hoạt động
bền bỉ suốt 9 năm.
Những hoạt động
đó đã góp phần tích cực vào thắng lợi của nhân dân trong cuộc kháng chiến thực
dân Pháp kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Đồng thời tạo tiền đề
và nền móng cho hoạt động Công đoàn sau này.
CÔNG ĐOÀN
TRONG XÂY DỰNG CNXH MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM 1954-1975
Sau 9 năm
kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chuyển
sang thời kỳ xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục chiến đấu giải phóng đất nước.
Trong thời
gian này, Công đoàn tích cực vận động CNVC tham gia công cuộc cải tạo XHCN. Năm
1957, Luật Công đoàn được Quốc hội thông qua và Tổng Liên đoàn được công nhận
là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân.
Ngày
23/3/1961, Đại hội II Công đoàn Việt Nam được triệu tập và Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam được chính thức đổi tên thành Tổng Công đoàn Việt Nam. Tổ chức Công
đoàn phát triển mạnh mẽ và được củng cố từ Trung ương đến cơ sở. Nổi bật nhất
là phong trào thi đua XHCN, hưởng ứng phong trào "Mỗi người làm việc bằng
hai vì miền Nam ruột thịt" do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động.
Từ năm 1965
-1975 giặc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh quy mô lớn ở miền Nam và leo thang ra miền Bắc.
Hoạt động Công đoàn chuyển từ thời bình sang thời chiến. Công đoàn đã động viên
CNVC sơ tán hàng nghìn xí nghiệp máy móc để tiếp tục sản xuất. Đồng thời, tranh
thủ thời gian hoà bình tạm thời, Công đoàn động viên CNVC mau chóng hàn gắn vết
thương chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất. Nhiều phong trào thi đua được CNLĐ hưởng
ứng như " Ngày thứ bảy đấu tranh thống nhất nước nhà", "Làm thêm
phần việc của anh Trỗi", "Chắc tay súng vững tay búa", với những
khẩu hiệu hành động cụ thể: "Địch đến là đánh, địch đi lại sản xuất",
"Đổi máu lấy dòng điện"…
Tháng 2/1974 Đại
hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam được triệu tập. Đại hội đã biểu dương thành
tích to lớn của giai cấp công nhân đồng thời chỉ ra nhiệm vụ Công đoàn trong thời
gian tới.
Trong suốt những
năm chiến tranh Công đoàn Việt Nam đã không ngừng tham gia các hoạt động Quốc tế
và được nhiều tổ chức Công đoàn thế giới tận tình ủng hộ. Đặc biệt là sau Đại hội
IV Công đoàn thế giới. Công đoàn thế giới đã sử dụng mọi tình hình, biện pháp
đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh Việt Nam; một làn sóng biểu tình, mít tinh của người
lao động diễn ra trên thế giới; hàng vạn tấn thuốc men, quần áo, dụng cụ y tế của
lao động các nước quyên góp giúp đỡ Việt Nam.
Ở miền Nam,
nhiều cán bộ Công đoàn trung kiên đã bám sát cơ sở, nhà máy, xí nghiệp, đồn điền
để xây dựng lực lượng cách mạng trong CNLĐ, một mặt đấu tranh chống âm mưu
"Cải lương hóa Công đoàn" của Mỹ ngụy. Năm 1961 Hội Lao động giải
phóng miền Nam ra đời (Sau đổi tên là Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam).
Năm 1962 được Liên hiệp Công đoàn thế giới công nhận là thành viên chính thức.
Từ đây phong trào đấu tranh của công nhân, lao động miền Nam sôi động và quyết
liệt nhất, thu được thắng lợi vẻ vang nhất trong cuộc đấu tranh cách mạng. Chỉ
tính từ năm 1953 đến năm 1964 toàn miền Nam có 7.116 cuộc đình công, biểu tình
của 1.221.000 lượt công nhân.
Từ những kết
quả trên, trong giai đoạn 1954 -1975 Công đoàn Việt Nam đã cùng với giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó là đã giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước.
CÔNG ĐOÀN
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN CẢ NƯỚC 1975-2009
Đại thắng mùa
xuân năm 1975, đã đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để đáp ứng yêu
cầu cách mạng trong thời kỳ mới, ngày 6/6/1976, hội nghị thống nhất Công đoàn
toàn quốc đã họp tại thành phố Hồ Chí Minh và thống nhất lấy tên là Tổng Công
đoàn Việt Nam. Với tổng số đoàn viên là 3 triệu trên tổng số 3,4 triệu CNVC. Đồng
chí Hoàng Quốc Việt - UVTW Đảng được bầu làm Chủ tịch.
Ngày
8-11/5/1978, Đại hội IV Công đoàn Việt Nam được tiến hành tại Hà Nội. Đ/c Nguyễn
Văn Linh - Uỷ viên Bộ chính trị BCH TW Đảng được bầu làm Chủ tịch Tổng Công
đoàn Việt Nam. Đây là Đại hội biểu hiện ý chí của CNLĐ cả nước quyết tâm thi
đua lao động sản xuất, bảo vệ tổ quốc XHCN. Công đoàn đã vận động CNLĐ đẩy mạnh
các phong trào thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước tham gia cải tạo XHCN ở miền
Nam, phát triển đoàn viên, thực hành tiết kiệm, tăng gia sản xuất.
Năm 1980 Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Hiến pháp, trong đó Điều
10 xác định vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam trong thời kỳ mới, đó là cơ
sở pháp lý để Công đoàn nhìn lại mình và xác định nhiệm vụ mới.
Ngày 16-18/11/1983
Đại hội V Công đoàn Việt Nam được tiến hành tại Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Đức Thuận
UV.TW Đảng được bầu làm Chủ tịch (10/1985 đồng chí Nguyễn Đức Thuận từ trần và
đ/c Phạm Thế Duyệt được bầu làm Chủ tịch). Đại hội nhất trí lấy ngày 28/7/1929
làm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam.
Giai đoạn
1981-1986 là những năm đầy thử thách: thiên tai, lưu thông phân phối, rối loạn,
kinh tế giảm sút, giá cả nhảy vọt, đời sống CNLĐ sa sút, các thế lực phản động
bên ngoài ra sức bao vây nhằm làm cho nền kinh tế Việt Nam sụp đổ. Nhưng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp công nhân đã cùng toàn dân ta vượt
qua mọi thử thách.
Công cuộc đổi
mới đất nước đến nay đã qua 23 năm (1986 -2013), đó là giai đoạn đất nước trải
qua nhiều biến động phức tạp. Trong giai đoạn này tổ chức Công đoàn đã tiến
hành 6 kỳ Đại hội: VI, VII, VIII, IX, X, XI trong đó Đại hội VI Công đoàn Việt
Nam được tiến hành từ ngày 17-20/10/1988 là sự kiện quan trọng nhất, đây là Đại
hội thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời Đại hội cũng đặt cơ sở lý
luận cho đổi mới và hoạt động Công đoàn. Đại hội đề ra mục tiêu: Việc làm, đời
sống, dân chủ và công bằng xã hội. Đó là nhu cầu và nguyện vọng bức xúc của
CNLĐ.
Đại hội quyết
định đổi tên từ Tổng Công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Có thể khẳng định
giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam luôn là lực lượng hăng hái đi
đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần tạo nên những thành tựu bước đầu, nhưng rất
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị,
an ninh quốc phòng và duy trì phát triển sản xuất, quyết tâm đổi mới hoạt động,
tiếp cận với hình thức tổ chức kinh tế mới, công nghệ mới hiện đại, thúc đẩy
kinh tế phát triển theo hướng xây dựng nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thời kỳ Việt Nam hội nhập kinh tế Thế giới.
THỜI CƠ, THÁCH
THỨC CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIÊN LAO ĐỘNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN TRONG GIAI
ĐOẠN MỚI
- Thời cơ:
Nước ta trở
thành thành viên của WTO góp phần tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế và phúc lợi
xã hội. Một số ngành kinh tế có thể phát triển nhanh nhờ vào mức tăng trưởng
kinh tế đạt được thông qua quá trình tự do hóa thương mại, mang lại nhiều cơ hội
việc làm, làm giảm thất nghiệp và tăng thu nhập cho công nhân, lao động.
Hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới làm tăng cơ hội để lao động nước ta tiếp cận trực tiếp
với nền sản xuất hiện đại với trình độ và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất,
kinh doanh tiên tiến góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động,
kiến thức tổ chức, quản lý của người lao động Việt Nam.
Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập
WTO đưa đến sự tăng nhanh số lượng lao động, tăng nhanh các đơn vị sản xuất,
kinh doanh trong các thành phần kinh tế, là cơ sở xã hội và tiền đề thuận lợi để
Công đoàn vận động kết nạp đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở.
Đảng ta đã ban
hành Nghị quyết xây dựng giai cấp công nhân. Nghị quyết khẳng định quan điểm, mục
tiêu của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nhân, lao
động, đoàn viên công đoàn ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về Công đoàn và ngày
càng có nhu cầu được tổ chức Công đoàn quan tâm đến đời sống, việc làm, đại diện,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng. Đây là một trong những điều kiện
thuận lợi để tập hợp, vận động công nhân, lao động tham gia Công đoàn.
Hội nhập kinh
tế quốc tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được bổ sung, hoàn thiện
phù hợp với yêu cầu tự do hóa thương mại, phù hợp với thông lệ và pháp luật quốc
tế. Những quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động công đoàn cũng ngày càng
được hoàn thiện; những cơ chế, biện pháp để Công đoàn thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình cũng được rõ ràng, cụ thể hơn.
Sự phát triển
mạnh mẽ của các quan hệ thương mại tạo điều kiện gia tăng các quan hệ hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực lao động và công đoàn tạo cơ hội thuận lợi để Công đoàn
Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đối ngoại góp phần tăng cường hợp tác,
trao đổi kinh nghiệm hoạt động và tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính của Công
đoàn các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thách thức:
Tự do hóa
thương mại nhiều hàng hóa sẽ nhập khẩu vào nước ta với số lượng ngày càng lớn
chiếm lĩnh thị trường của các sản phẩm nội địa cùng loại làm cho doanh nghiệp
trong nước gặp nhiều khó khăn, phải thu hẹp sản xuất hoặc giải thể, phá sản dẫn
tới lao động trong các ngành sản xuất đó bị mất việc làm.
Sự di chuyển
lao động từ các vùng nông thôn tới các thành phố và các khu công nghiệp làm cho
vấn đề việc làm, nhà ở và sự tập hợp công nhân ngày càng khó khăn.
Việc gia tăng
nhanh lao động công nghiệp đặt ra hàng loạt vấn đề cho quản lý nhà nước và công
đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng.
Sự phân hoá về
thu nhập, đời sống trong công nhân, lao động nước ta dẫn đến những bất bình đẳng
về cơ hội, quyền lợi và địa vị xã hội giữa những người lao động như: bất bình đẳng
trong tiếp cận hệ thống giáo dục, hệ thống đào tạo, dạy nghề; trong cơ hội tạo
việc làm, tìm kiếm việc làm và thay đổi việc làm; trong tiếp cận hệ thống chăm
sóc, bảo vệ sức khoẻ, chữa bệnh; bảo hiểm xã hội; trong cơ hội giao lưu trong
nước và quốc tế, trong hưởng thụ đời sống vật chất và hưởng thụ văn hoá, tinh
thần; trong điều kiện quan tâm, chăm sóc các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra, để
đương đầu với những áp lực nặng nề từ phía thị trường, nhiều doanh nghiệp có xu
hướng cắt giảm lao động, giảm lương hay cắt giảm trợ cấp phúc lợi. Việc vi phạm
các quy định về điều kiện an toàn và vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi và các điều kiện làm việc khác có thể sẽ xảy ra thường xuyên hơn.
Đa số công
nhân, lao động trong các thành phần kinh tế thiếu an tâm đối với hệ thống an
sinh xã hội đang còn trong quá trình hoàn thiện hiện nay.
Trong những
năm tới, công nhân lao động nước ta sẽ tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực
do khủng hoảng kinh tế thế giới mang lại.
Đứng trước những
thời cơ và thách thức trên, Đại hội XI Công đoàn Việt Nam đã đề ra một số chỉ tiêu phấn đấu đến hết năm
2018 cụ thể là:
- Phấn đấu
phát triển đoàn viên đến năm 2018 cả nước có 10 triệu đoàn viên.
- 90% trở lên
số đơn vị, doanh nghiệp đã đi vào hoạt động và có từ 30 lao động trở lên thành
lập được tổ chức công đoàn cơ sở.
- 100% số cán
bộ công đoàn chuyên trách, 70% trở lên số cán bộ công đoàn không chuyên trách
được đào tạo bồi dưỡng, tập huấn về lý luận, nghiệp vụ công tác công đoàn.
- Hàng năm có
80% trở lên số công đoàn cơ sở ở các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp và
doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước và 40% trở lên số công đoàn cơ sở ở khu vực
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tiêu chuẩn “Công
đoàn cơ sở vững mạnh”.
- Bình quân
hàng năm mỗi công đoàn cơ sở giới thiệu ít nhất 01 đoàn viên công đoàn ưu tú
cho tổ chức Đảng bồi dưỡng, xem xét kết nạp vào đảng.
- 100% số Liên
đoàn Lao động tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành Trung ương, Công đoàn Tổng công
ty trực thuộc Tổng Liên đoàn thành lập Trung tâm tư vấn pháp luật hoặc Văn
phòng tư vấn pháp luật hoặc tổ tư vấn pháp luật.
- 100% số cán
bộ chủ chốt công đoàn các cấp, 100% số cán bộ nữ công công đoàn cấp trên cơ sở
được bồi dưỡng, tập huấn nội dung về bình đẳng giới, lồng ghép giới trong hoạt
động công đoàn.
Các chỉ tiêu
tổ chức công đoàn tham gia chỉ đạo, thực hiện
- Hàng năm có
95% trở lên số cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhà nước tổ chức Hội nghị
cán bộ, công chức; 95% trở lên số doanh nghiệp nhà nước và 50% trở lên số công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn tổ chức Hội nghị người lao động.
- Có 100% số
doanh nghiệp nhà nước, 65% trở lên số doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có tổ chức công đoàn có thỏa ước lao động tập thể.
- Hàng năm có
80% trở lên số đoàn viên và người lao động nơi có tổ chức công đoàn được học tập,
tuyên truyền, phổ biến các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các Nghị quyết của Công đoàn.
- Vận động từ
60% trở lên số đoàn viên và người lao động nơi có tổ chức công đoàn học tập
nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp.
Đại hội đã đề
ra 4 chương trình hành động, đó là:
- Chương trình
“Phát triển đoàn viên giai đoạn 2013 - 2018”.
- Chương trình
“Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công đoàn”.
- Chương trình
“Nâng cao chất lượng thương lượng, ký kết và thực hiện có hiệu quả thoả ước lao
động tập thể”.
- Chương trình
“Nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động”.
Quán triệt sâu
sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Cương
lĩnh chính trị và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới; Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đại hội XI Công
đoàn Việt Nam xác định 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, Chăm
lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn
viên, công nhân và người lao động.
Thứ hai, tuyên
truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động góp phần xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh. Triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Tổng
Liên đoàn thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Thứ ba, tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước trong
đoàn viên và người lao động, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ tư, phát
triển đoàn viên, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh; nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp.
Thứ năm, công
tác vận động nữ công nhân, viên chức, lao động: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả
Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn
về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ
động tham gia xây dựng, kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
liên quan đến lao động nữ và bình đẳng giới.
Tiếp tục thực hiện phong trào thi đua
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” gắn với phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học
tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và cuộc vận động “Xây dựng
gia đình 5 không, 3 sạch” do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động. Tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ công công đoàn ở các cấp.
Thứ sáu, công
tác tài chính và hoạt động kinh tế : Thực hiện tốt công tác thu- chi, quản lý ngân
sách Công đoàn theo đúng quy định của Nhà nước và của Tổng Liên đoàn; Tiếp tục
tổ chức hoạt động kinh tế công đoàn ;
Thứ bảy, công
tác đối ngoại: Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với công đoàn
các nước, các tổ chức công đoàn quốc tế, tổ chức phi chính phủ và tổ chức Lao động
quốc tế (ILO). Chủ động tham gia các hoạt động của các tổ chức công đoàn ngành
nghề quốc tế; tăng cường tình đoàn kết quốc tế giữa công nhân, lao động và Công
đoàn Việt Nam với phong trào công nhân và công đoàn thế giới...
Thứ tám, Công
tác kiểm tra và hoạt động của ủy ban kiểm tra, Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong công tác tài
chính và hoạt động kinh tế công đoàn...
Qua 87 năm, tổ
chức Công đoàn Việt Nam hình thành, xây dựng và phát triển. 87 năm ấy so với
chiều dài lịch sử của một dân tộc thì mới là “Một chặng đường” khởi đầu. Nhưng
trên chặng đường đó, tổ chức Công đoàn và CNVCLĐ Việt Nam đã đánh dấu nhiều mốc
son lịch sử chói lọi.
Từ khi thành lập
đến nay, trải qua các thời kỳ cách mạng với nhiều tên gọi khác nhau song Công
đoàn Việt Nam vẫn là tổ chức duy nhất do Đảng sáng lập và lãnh đạo; là thành
viên nòng cốt của khối liên minh Công – Nông – Trí và đại đoàn kết toàn dân; là
sợi dây nối liền Đảng Cộng sản với giai cấp công nhân và là chỗ dựa vững chắc của
Nhà nước trong mọi hoạt động. Công đoàn Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng lớn
nhất của giai cấp công nhân, một tổ chức thống nhất về chính trị, tổ chức. Công
đoàn Việt Nam luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, thường xuyên đổi mới
phương thức hoạt động, tăng cường mở rộng quan hệ quốc tế để trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm nhằm chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động ngày
càng tốt hơn.
Lịch sử 87 năm
Công đoàn Việt Nam đã có nhiều cuộc tổng kết lớn, nhiều bài học kinh nghiệm được
rút ra từ thực tiễn hoạt động. Việc nghiên cứu, vận dụng linh hoạt, sáng tạo những
bài học kinh nghiệm đó vào điều kiện hoạt động cụ thể của các cấp Công đoàn
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội
nhập kinh tế Quốc tế có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc. Đặc biệt đối
với công nhân viên lao động tìm hiểu về tổ chức Công đoàn Việt Nam là để nâng
cao nhận thức chính trị đồng thời là vũ khí lý luận để họ bảo vệ chính mình. Đó
là quyền lợi, là trách nhiệm của mỗi công nhân viên lao động, như V.I. Lê Nin
đã nói “Đối với người công nhân giác ngộ, không có nhiệm vụ nào quan trọng hơn
nhiệm vụ hiểu biết phong trào của chính giai cấp mình; hiểu biết về bản chất, mục
đích, nhiệm vụ, điều kiện và những hình thức hoạt động thực tiễn của phong trào
đó”./.