1. Các tổ chức tiền thân và sự ra đời của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nên luôn có nhu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du…Nhiều phụ nữ nổi tiếng đã tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai...
Vào những năm 1927 – 1930, các tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ: Phụ nữ phản đế, Đồng minh phụ nữ hiệp hội, Hội phụ nữ giải phóng... và hình thành nên nhiều nhóm phụ nữ...
Năm 1927, nhóm chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy là ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Các chị tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten gồm 30 chị vừa học nghề vừa học chữ.
Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng, Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh.
Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cũng Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ giải phóng ở Vinh.
Năm 1930 thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An có 6.066 chị tham gia phụ nữ giải phóng, ở Hà Tĩnh có 6880 chị cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên 200 xã (Nghệ An) và 172 xã (Hà Tĩnh), 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thủy bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế (nhà máy có 90% là nữ).
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ; gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ. Đảng đặt ra: phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng (công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
Qua các thời kỳ cách mạng, có các tổ chức phụ nữ: Hội phụ nữ giải phóng (1930 – 1931), Hội phụ nữ dân chủ (1936 – 1939), Hội phụ nữ phản đế (1939 – 1941), Đoàn phụ nữ cứu quốc (16 – 6 – 1941), Hội LHPN Việt Nam (20 – 10 – 1946), Hội LHPN Việt Nam (6 – 1976 – khi nước nhà đã thống nhất). Dù tên gọi có nhiều thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhưng trước sau vẫn là tổ chức kiên trung của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Các tổ chức Hội phụ nữ trong thời kỳ 1930-1945
* Hội phụ nữ giải phóng (1930 -1935)
Năm 1930 - 1931 đã hình thành tổ chức “Phụ nữ Giải phóng”, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào đấu tranh cách mạng như Xô viết Nghệ Tĩnh, phong trào nổi dậy của nông dân Thái Bình, cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, công nhân Phú Riềng. Chỉ riêng ở Nghệ An, trong thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh đã có 6.066 chị em tham gia phụ nữ giải phóng. Nội dung hoạt động thời kỳ này chủ yếu là tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, đòi cải thiện đời sống, đòi dân sinh, dân chủ, chống áp bức của đế quốc, phong kiến. Hình thức hoạt động phổ biến là bãi công, bãi chợ, mít tinh, biểu tình, tổ chức các tổ nhóm để học tập và giúp nhau khi sinh đẻ, đau ốm. Phong trào phát triển rộng ở một số tỉnh như Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nội, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh...
* Hội phụ nữ Dân chủ (1936 - 1939)
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 8/1937 - về công tác vận động phụ nữ đã đề ra: nam nữ bình quyền, giác ngộ chống phát xít, chống chiến tranh. Cùng với phong trào chung của cả nước, phụ nữ đã tích cực hưởng ứng phong trào “Đông dương Đại hội”. Đây là cuộc vận động dân chủ công khai đầu tiên ở Đông dương nên tổ chức phụ nữ được thành lập với tên gọi Hội phụ nữ Dân chủ. Hình thức hoạt động chủ yếu là: đấu tranh công khai, hợp pháp, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình đẳng. Một số hoạt động khác gắn với tính chất ngành nghề của phụ nữ như: hội Ái hữu, hội Truyền bá quốc ngữ, để đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi quyền lợi cho phụ nữ. Phong trào phát triển mạnh ở các đô thị như Hải Phòng, Hà Nội, Vinh, Huế, Sài Gòn.
*Hội phụ nữ phản đế (1939 - 1941)
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Trước tình hình đó Đảng đã quyết định nhiệm vụ cách mạng: không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp. Đồng thời Đảng cũng chủ trương : “Vận động phụ nữ tổ chức các hội phụ nữ phản chiến, các hội cứu tế, bảo an, để giúp đỡ nhau, nhất là giúp đỡ các nạn nhân do chiến tranh gây ra, đòi trợ cấp đầy đủ cho vợ con lính, đòi trả chồng con, chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình” Để phù hợp với tình hình, Hội lấy tên là Hội phụ nữ Phản đế. Hình thức hoạt động chủ yếu là vận động chị em tham gia mít tinh, biểu tình, tham gia các hội cứu tế, bảo an, tham gia chống bắt lính với khẩu hiệu chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình, đòi bồi thường chiến tranh. Phong trào phát triển mạnh ở Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Đà Nẵng, Quảng Trị, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Chợ Lớn...
* Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và Hội LHPN Việt Nam (1941-1954)
Ngày (28/1/1941), đồng chí Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hội nghị lần thứ 8 của TW Đảng họp tháng 5/1941 tại Pác Bó đã ra một quyết định quan trọng là thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp tất cả lực lượng yêu nước bao gồm các đoàn thể cứu quốc mà nòng cốt là công nông liên minh, kêu gọi toàn dân đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập căn cứ cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 16/6/1941 Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập có hệ thống tổ chức đến cấp tổng, huyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Đoàn Phụ nữ Cứu quốc đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, tham gia hoạt động bí mật, gây dựng cơ sở, liên lạc chắp nối cho các cơ sở Đảng; hoạt động liên lạc, xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng, là lực lượng hùng hậu tham gia tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám.
Được sống trong không khí độc lập tự do chưa đựơc bao lâu, trước âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp (1946), Đảng ta chủ trương mở rộng mặt trận thống nhất dân tộc, thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), nhằm tập hợp, huy động rộng rãi; động viên, khích lệ mạnh mẽ đông đảo quần chúng yêu nước ở mọi lĩnh vực, mọi thành phần, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi đảng phái đoàn kết, tạo thêm thế và lực đối phó với những diễn biến phức tạp của tình hình ngàn cân treo sợi tóc lúc đó.
Trong bối cảnh đó, ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Hội LHPN Việt Nam) chính thức được thành lập, bà Lê Thị Xuyến được bầu làm Hội trưởng. Hội LHPN Việt Nam là một mặt trận gồm nhiều đoàn thể phụ nữ trong đó phụ nữ Cứu quốc là tổ chức trụ cột.
Năm 1947, tại Nam bộ để lãnh đạo phong trào phụ nữ, Ban Chấp hành phụ nữ Cứu quốc Nam bộ được thành lập.
Tháng 10/1947, tại Việt Bắc, Hội nghị cán bộ phụ vận toàn quốc họp đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Hội Phụ nữ Cứu quốc, đồng chí Hoàng Ngân (Tên thật là Phạm Thị Vân) được bầu làm bí thư.
Năm 1946 Hội LHPN Việt Nam gia nhập Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị TW mở rộng ngày 15-17/1/1948 khẳng định :“Công tác chính của phụ nữ là tăng gia sản xuất, vì nam giới phải ra trận nhiều, thiếu nhân công. Các công tác phụ thuộc của phụ nữ là cứu tế nạn nhân, tiếp tế và uý lạo bộ đội; chống phá hoại, chống nạn mù chữ, vận động đời sống mới, tuyên truyền kháng chiến, đánh du kích”
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Hội LHPN Việt Nam mà nòng cốt là Hội phụ nữ Cứu quốc đã có nhiều hình thức hoạt động phong phú và là lực lượng nòng cốt hăng hái tham gia vào các phong trào thi đua ái quốc "diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm" do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động.
Năm 1950, để đẩy mạnh cuộc kháng chiến trong cả nước, Đảng chủ trương thống nhất các lực lượng kháng chiến thành một khối thống nhất và Hội quyết định: “Hoà hợp Đoàn phụ nữ cứu quốc vào Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, giản đơn tổ chức và thống nhất lực lượng phụ nữ”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất diễn ra từ ngày 14-19/4/1950 tại thôn La Bằng, xã Cù Vân (nay là xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, Thái Nguyên) đã ra Quyết nghị hợp nhất Đoàn phụ nữ Cứu quốc Việt Nam vào Hội LHPN Việt Nam thành một tổ chức chính trị duy nhất của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, lấy tên là Hội LHPN Việt Nam. Sự ra đời của Hội LHPN Việt Nam đã thống nhất sự chỉ đạo phong trào phụ nữ cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn phụ nữ Cứu quốc và Hội LHPNVN đã vận động các tầng lớp phụ nữ vượt qua mọi khó khăn thực hiện các phong trào: Phụ nữ học cày bừa, tăng gia sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng hoá, vũ khí quân trang, thuốc men đảm bảo cho bộ đội “ăn no đánh thắng”, mua công phiếu kháng chiến; phong trào diệt giặc dốt tiếp tục phát triển; phụ nữ các miền thi đua học tập văn hóa, thực hiện phong trào “Đời sống mới”; Hội mẹ chiến sỹ được tổ chức ở khắp nơi. …Hoạt động của Hội phụ nữ đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
2. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ được ký kết. Đế quốc Mỹ thay chân Pháp xâm chiếm miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta.
- Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới (1960) đã khẳng định: “... Phụ nữ nước ta là lực lượng quan trọng trong cách mạng. Đảng có nhiệm vụ lớn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phát huy năng lực dồi dào của phụ nữ...” và chỉ đạo “Hội LHPN Việt Nam phải đoàn kết hơn nữa tất cả các tầng lớp phụ nữ, giáo dục và cổ vũ phụ nữ ra sức phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng”.
* Ở miền Bắc
- Tháng 5 năm 1956, Đại hội phụ nữ toàn quốc lần II đã tổng kết những thành tích của phong trào phụ nữ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và xác định 5 nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (1956 – 1961):
1. Đoàn kết phụ nữ cả nước để cùng toàn dân phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh
2. Thực hiện nam nữ bình đẳng, giải phóng hoàn toàn phụ nữ
3. Nâng cao trình độ chính trị, văn hoá cho phụ nữ
4. Mở rộng các hoạt động xã hội để nâng cao đời sống của phụ nữ và nhi đồng
5. Đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới
Thực hiện Chỉ thị 137– CT/TW ngày 10/4/1959 của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường lãnh đạo công tác vận động phụ nữ. Hội LHPN Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan Nhà nước, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các chính sách, chế độ liên quan đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đồng thời chủ động nghiên cứu để đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành những chính sách, chế độ phù hợp. Kết quả của công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của Hội trong thời gian này là sự tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật: Hiến pháp (1959) và Luật Hôn nhân và gia đình (1960)… Vai trò của Hội trong tham mưu đề xuất các chính sách, pháp luật, chế độ liên quan đến phụ nữ và trẻ em đã thể hiện sự chuyển biến trong phương thức chỉ đạo của Hội và tăng cường sự phối hợp với các ngành góp phần thực hiện công tác bảo vệ, chăm lo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em ngày càng có hiệu quả thiết thực.
Từ sau khi hòa bình lập lại (1954), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã chỉ đạo, vận động các tầng lớp phụ nữ ở miền Bắc tham gia khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất, tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, văn hóa.
- Tháng 3/1961 Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III họp tại Hà Nội đã phát động phong trào thi đua 5 tốt với các nội dung: Đoàn kết sản xuất, tiết kiệm tốt, chấp hành chính sách tốt, tham gia quản lý tốt, học tập chính trị, văn hoá, kỹ thuật tốt, xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt,
- Tháng 3/1965 TW Hội LHPN Việt Nam phát động Phong trào Ba đảm đang với các nội dung: Đảm đang sản xuất và công tác, đảm đang gia đình, đảm đang phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
Phong trào Ba đảm đang đã có 42 chị và 9 tập thể được tuyên dương Anh hùng, 5.000 chiến sỹ thi đua, 1718 chị được thưởng huy hiệu Bác Hồ và gần 4 triệu chị em đạt danh hiệu “Ba đảm đang”. Phong trào “Ba đảm đang” có ý nghĩa toàn diện về tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống lao động sáng tạo, ý chí tự cường phấn đấu vươn lên của phụ nữ miền Bắc. Phong trào đã nâng trách nhiệm, vị trí người phụ nữ lên tầm cao mới, tạo bước ngoặt lịch sử đối với sự phát triển của phụ nữ và phong trào phụ nữ. Hơn bốn thập kỷ đã trôi qua, nhưng những bài học kinh nghiệm được rút ra từ phong trào “Ba đảm đang” vẫn vẹn nguyên giá trị, mà trên hết là bài học về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân tố quyết định sự thành công của phong trào. Được Đảng tin tưởng giao nhiệm vụ, bản thân phụ nữ thấm nhuần ý nghĩa cách mạng của phong trào, hăng hái quyết tâm vươn lên, sẵn sàng gánh vác, làm tròn nhiệm vụ. Sự thành công của phong trào Ba đảm đang cho thấy sự nhạy bén nắm bắt tình hình của Hội LHPN VN đã kịp thời tham mưu đề xuất với Đảng những chủ trương, biện pháp động viên, tạo điều kiện phát huy mọi khả năng của phụ nữ, phù hợp với yêu cầu của đất nước.
* Ở miền Nam
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 1954 cách mạng miền Nam chủ yếu đấu tranh chính trị, thi hành Hiệp định Giơ – ne – vơ. Phụ nữ miền Nam đi đầu trong đấu tranh cách mạng, chống lại âm mưu tàn bạo của Mỹ với phong trào “Đồng Khởi”, “Đội quân tóc dài”.
Để thực hiện nhiệm vụ chiến lược cách mạng và thúc đẩy hoạt động của phong trào phụ nữ tại miền Nam, ngày 8/3/1961 Hội LHPNGPMN Việt Nam được thành lập. Phong trào thi đua 5 tốt đã được phát động khắp miền Nam với nội dung:
1. Đoàn kết đấu tranh chính trị, võ trang, bình vận tốt
2. Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt
3. Chăm sóc, nuôi dưỡng thương bệnh binh
4. Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt
5. Rèn luyện tư cách đạo đức tốt
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), phụ nữ miền Nam luôn đứng trên tuyến đầu chống Mỹ. Nơi nào khó khăn, phụ nữ đều có mặt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Lực lượng phụ nữ được rèn luyện trong chiến đấu và không ngừng lớn mạnh, xứng đáng với danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
3. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn (1975 - 1985)
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IV diễn ra từ ngày 4 đến ngày 7/3/1974, tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đánh giá những thành tích to lớn mà Hội LHPN Việt Nam đã lãnh đạo phụ nữ miền Bắc thực hiện trong phong trào “Ba đảm đang” và đề ra 6 nhiệm vụ cụ thể cho toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ thực hiện trong nhiệm kỳ là: xây dựng người phụ nữ Xã hội chủ nghĩa, làm tốt nghĩa vụ với Tổ quốc, xã hội và gia đình; vận động phụ nữ tham gia phong trào thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm; cùng các cơ quan, đoàn thể chăm lo quyền lợi, đời sống, sức khoẻ phụ nữ, trẻ em, hướng dẫn tổ chức tốt gia đình; làm tròn nghĩa vụ với cách mạng miền Nam; tăng cường đoàn kết hữu nghị với phụ nữ trên thế giới đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ nghĩa xã hội, cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ em; củng cố tổ chức Hội ra sức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phụ nữ, cải tiến sự chỉ đạo, chuyển mạnh phương thức hoạt động của Hội.
Sau ngày đất nước giải phóng, thực hiện chủ trương của Đảng về thống nhất các đoàn thể nhân dân;
Hội nghị hợp nhất tổ chức Phụ nữ ở hai miền (6/1976) được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh:
- Quyết định hợp nhất 2 tổ chức phụ nữ ở 2 miền: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam thành một tổ chức thống nhất lấy tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
- Đề ra nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam: Giáo dục động viên phụ nữ cả nước sôi nổi tham gia cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hội nghị đã quyết định lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam.
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ V (1982). Đề ra nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong nhiệm kỳ (1982 - 1987):
1. Đoàn kết giáo dục, động viên các tầng lớp phụ nữ phát huy vai trò làm chủ tập thể và ý chí phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng.
2. Tiếp tục phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đã được phát động tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại Hội IV năm 1978
3. Chăm lo những vấn đề phúc lợi và đời sống của phụ nữ, tăng cường đoàn kết với phụ nữ thế giới.
4. Củng cố tổ chức Hội, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ.
5. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội.
4. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước (1986 - nay)
Thông qua những hoạt động phong phú trong phong trào "Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", những nét đặc trưng cho tính cách của người phụ nữ mới Xã hội chủ nghĩa đang được hình thành từng bước và thể hiện tập trung nhất ở những tập thể và cá nhân điển hình của các ngành, các địa phương. Tiêu biểu cho những điển hình đó là 112 nữ anh hùng (Số nữ anh hùng được tuyên dương từ 1965 đến năm 1980) và hàng chục vạn những chị em ưu tú được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua và các danh hiệu khen thưởng khác. Quốc hội và Chính phủ đã tặng thưởng hàng trăm Huân chương và Bằng khen cho phong trào phụ nữ các địa phương. Năm 1980, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, phong trào phụ nữ cả nước đã được vinh dự đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh, phần thưởng cao quý ghi nhận những thành tích và cống hiến to lớn của phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ lịch sử này.
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ (1987 - 1992) đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ:
1. Tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách có liên quan trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, thực hiện chính sách hậu phương quân đội...
2. Thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa
3. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc đời sống phụ nữ và trẻ em, công tác đối ngoại nhân dân, công tác tổ chức cán bộ và đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Hội.
Ngày 08/3/1989 Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phát động hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học”.
Đại hội Đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VII nhiệm kỳ (1992 -1997) xác định mục tiêu: “Đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ, phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ để thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế - xã hội”, đồng thời đề ra 5 chương trình hoạt động trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1992 - 1997:
1. Bồi dưỡng nâng cao kiến thức và năng lực cho phụ nữ.
2. Hỗ trợ các hoạt động tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ
3. Chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em. Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, bền vững, tiến bộ
4. Đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ, tập hợp quần chúng và xây dựng quỹ Hội
5. Tổ chức nghiên cứu và vận động quần chúng tham gia xây dựng, giám sát, kiểm tra chính sách, luật pháp, cơ chế mới liên quan trực tiếp đến quyền lợi Phụ nữ, nghiên cứu một số vấn đề về gia đình.
- Đại hội quyết định tiếp tục phát động thực hiện hai phong trào thi đua “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ học” và tiếp tục thực hiện phong trào "Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo" được phát động ngày 20/10/1990.
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ VIII Nhiệm kỳ (1997 - 2002) với chủ đề: “Đoàn kết, đổi mới vì bình đẳng, phát triển và hoà bình, vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
- Đại hội đã đề ra 5 chương trình hoạt động trọng tâm như Đại Hội VII nhưng được bổ sung những nội dung mới nhằm cụ thể hoá nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ nhiệm kỳ 1997 – 2002:
1. Giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao, kiến thức, trình độ và năng lực cho Phụ nữ.
2. Vận động Phụ nữ nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, hỗ trợ Phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập.
3. Chăm sóc sức khoẻ Phụ nữ, trẻ em, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
4. Xây dựng tổ chức Hội vững mạnh
5. Nghiên cứu và kiểm tra giám sát.
- Đại hội quyết định phát động trong cán bộ, Hội viên phụ nữ cả nước 2 phong trào thi đua; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước”.
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ IX Nhiệm kỳ (2002 - 2007) với chủ đề: “Đoàn kết - Bình đẳng - Năng động - Sáng tạo vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
- Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu chung và nhiệm vụ cụ thể trong nhiệm kỳ 2002 - 2007. Đại hội đã đề ra 6 chương trình trọng tâm trong hoạt động của Hội:
1. Giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực và trình độ mọi mặt của phụ nữ
2. Hỗ trợ Phụ nữ phát triển kinh tế
3. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
4. Xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh
5. Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng nam nữ.
6. Hoạt động đối ngoại nhân dân.
- Đồng thời với 6 chương trình công tác trọng tâm, Đại hội tiếp tục phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ X Nhiệm kỳ (2007 - 2012): Đại hội đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ 2007 - 2012 với các chỉ tiêu cơ bản của nhiệm kỳ là 6 nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động Hội cụ thể như sau:
1. Nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực của phụ nữ đáp ứng yêu cầu tình hình mới, xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu.
2. Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới
3. Hỗ trợ Phụ nữ phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập.
4. Hỗ trợ Phụ nữ xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
5. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh.
6. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế vì bình đẳng, phát triển và hoà bình.
Đại hội quyết định tiếp tục phát động phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Các cấp Hội đã tích cực vận động phụ nữ và các tầng lớp phụ nữ sôi nổi hưởng ứng thực hiện phong trào thi đua yêu nước “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc’’ gắn với thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh’’; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ xây dựng “Mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo”. Với sự trợ giúp thiết thực đã có hàng triệu phụ nữ được cung cấp kỹ năng và hàng chục nghìn tỷ đồng vốn để chị em vay phát triển sản xuất, tạo việc làm để cuộc sống thêm no ấm, hạnh phúc.
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt trong phong trào phụ nữ, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của các tầng lớp phụ nữ, đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước và hội nhập quốc tế./.
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM