TSKH. Phan Xuân Dũng

 

TCCS - Khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng trí tuệ và tố chất của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ cũng như người dân Việt Nam, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Bài viết phân tích các kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân của hạn chế để từ đó tìm ra được những bước đi mới vững chắc nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động khoa học và công nghệ của đất nước trong thời gian tới.

Trong giai đoạn 2011 - 2015, khoa học và công nghệ (KH-CN) nước ta đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trên các lĩnh vực, như quốc phòng - an ninh, đặc biệt là làm chủ công nghệ trong công tác đóng tàu quân sự 12418; công nghệ thông tin - truyền thông (ứng dụng công nghệ thông tin và cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước, nhất là trong lĩnh vực hải quan, ngân hàng); cơ khí - tự động hóa (thiết kế, chế tạo thành công máy biến áp điện lực 3 pha 500KV-3x150 MVA); y tế (ứng dụng công nghệ tế bào gốc trong điều trị ung thư tại Bệnh viện Trung ương Huế); công nghệ sinh học; bảo tồn nguồn gen; nông nghiệp; thủy lợi; môi trường,... Điều này đã cho thấy, KH-CN nước ta đang có sự chuyển biến và đổi mới mạnh mẽ, các kết quả nghiên cứu đã chú trọng giải quyết các yêu cầu của sản xuất, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, năng lượng, phát triển nguồn nguyên liệu thay thế ngoại nhập, đổi mới, áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, chế tạo các thiết bị, dây chuyền thiết bị phục vụ sản xuất. Nhiều công trình nghiên cứu KH-CN đã được áp dụng thành công, góp phần đáp ứng nhu cầu trong nước nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học và công nghệ đang từng bước thể hiện vai trò động lực và nền tảng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Theo đánh giá trong Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index - GII) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) kết hợp với Đại học Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp), Việt Nam đứng thứ 52 trên 141 quốc gia/nền kinh tế tham gia xếp hạng, tăng 19 bậc so với năm trước. Việc thăng hạng có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi đây là đánh giá khách quan của các tổ chức và trường đại học uy tín trên thế giới.

Chính sách, pháp luật đối với phát triển khoa học và công nghệ

Nhận thức được tầm quan trọng của KH-CN, Đảng ta đã dành nhiều điều kiện cho phát triển KH-CN, đã ban hành các định hướng chiến lược, cơ chế và chính sách phát triển KH-CN, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (năm 1996) về định hướng chiến lược phát triển KH-CN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa IX (năm 2002), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng (năm 2011) và gần đây nhất là Nghị quyết số 20-NQ/TW được thông qua tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ”.

Pháp luật nước ta trong lĩnh vực KH-CN đã được ban hành khá đầy đủ, gồm 08 đạo luật(1), hàng loạt văn bản hướng dẫn thi hành, nhiều văn bản quan trọng khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý KH-CN cũng đã được ban hành, bổ sung và hoàn thiện nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động KH-CN. Các đạo luật được Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới đã có nhiều tác động đến sự phát triển của KH-CN nước nhà.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã tiếp tục khẳng định cùng với giáo dục và đào tạo, KH-CN là quốc sách hàng đầu, đã xác định vai trò quan trọng của KH-CN đối với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phát triển đất nước nhanh và bền vững; đã đưa KH-CN từ “giữ vai trò then chốt, là động lực thúc đẩy phát triển đất nước” (Hiến pháp năm 1992) trở thành “quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”.

Năm 2013, Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2000) được sửa đổi với nhiều nội dung mới đã tháo gỡ những “nút thắt”, tạo bước đột phá cơ bản trong hoạt động KH-CN, đó là: đổi mới về tổ chức KH-CN; đột phá về chính sách sử dụng và đãi ngộ cán bộ KH-CN; đổi mới về phương thức đầu tư cho KH-CN; đổi mới về ứng dụng kết quả nghiên cứu và phổ biến kiến thức KH-CN; đổi mới quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính cho nghiên cứu KH-CN thông qua Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và các quỹ phát triển khoa học và công nghệ; hội nhập quốc tế về KH-CN; vinh danh các nhà khoa học, lấy ngày 18-5 hằng năm là “Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam”.

Bên cạnh việc ban hành Hiến pháp mới và Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2013), trong những năm qua Quốc hội tiếp tục ban hành nhiều đạo luật sửa đổi, bổ sung về tài chính, ngân sách, đầu tư, kinh doanh, dân sự... Những đạo luật này đã hỗ trợ hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH-CN và tạo cơ chế cho KH-CN phát triển.

Một số bất cập, yếu kém của đầu tư cho khoa học và công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả như đã nêu, nhưng so với yêu cầu phát triển, KH-CN nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; thị trường KH-CN còn sơ khai, chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất, kinh doanh; đầu tư cho KH-CN còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả.

Nhiều khái niệm và nội hàm của KH-CN hiểu chưa được đầy đủ nên có không ít nhiệm vụ KH-CN được phê duyệt không phải là hoạt động KH-CN; còn sự nhầm lẫn giữa khái niệm công nghiệp với công nghệ nên đã sử dụng ngân sách nhà nước dành cho KH-CN vào phát triển công nghiệp; nội dung chi nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ giải pháp cũng đưa vào nội dung chi cho các hoạt động KH-CN.

Không ít tổ chức KH-CN chưa thực hiện nhiệm vụ KH-CN chuyên sâu, việc hình thành nhiệm vụ KH-CN thiếu tính kế thừa, khoa học; việc đăng ký và sử dụng kết quả nghiên cứu còn thiếu tính hệ thống; các tổ chức KH-CN chưa tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Phân bổ ngân sách nhà nước cho KH-CN chưa hợp lý, kinh phí cấp để thực hiện nhiệm vụ KH-CN có nhiều bất cập, thường xuyên giao chậm; cơ cấu chi chưa thực sự phù hợp (ước tính có khoảng 20% tiền dành cho KH-CN thực chất đầu tư cho hoạt động sáng tạo của các nhà nghiên cứu, còn 80% nằm ở khâu đầu tư gián tiếp).

Quản lý tài chính quốc gia về KH-CN có nhiều bất cập. Bộ Kế hoạch và Đầu tư lo chi đầu tư phát triển khoảng 44%, khoảng 56% còn lại một phần là lương sự nghiệp của Bộ Tài chính, phần chi nghiên cứu do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì (Trong đầu tư phát triển, Trung ương: 49%, địa phương: 51%. Trong chi cho vấn đề nghiên cứu, Trung ương: 75%, địa phương: 25%). Đây là bài toán cần nghiên cứu tính toán lại.

Chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt động KH-CN, đặc biệt từ doanh nghiệp. Ở các nước phát triển, phần lớn kinh phí đầu tư cho hoạt động KH-CN đến từ các doanh nghiệp, còn nhà nước chỉ chi khoảng 20% - 30%. Kinh phí từ ngân sách nhà nước chủ yếu chi cho các nghiên cứu cơ bản và các đề án có tầm quan trọng chiến lược. Ở nước ta do năng lực các doanh nghiệp còn nhỏ, nhu cầu đổi mới sáng tạo để tồn tại và phát triển chưa cao nên không nhiều doanh nghiệp tự ý thức được việc này. Mặc dù theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2013), doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận để tái đầu tư cho R&D (research & development - nghiên cứu và phát triển) nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Cơ cấu nguồn nhân lực quốc gia bất hợp lý. Theo kết quả tổng hợp từ Điều tra nghiên cứu và phát triển 2014 (Bản tin Chiến lược Phát triển, số 5+6+7/2015 của Cục Thông tin KH-CN quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ), năm 2013 Việt Nam có 164.744 người hoạt động trong lĩnh vực R&D, trong đó ở khu vực nhà nước có 139.531 người, chiếm tới 83%; ngoài nhà nước: 20.917 người, chiếm 14%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: 4.296 người, chiếm 3%. Với cơ cấu như vậy, cần phải thay đổi mới thu hút được các nguồn lực cho hoạt động KH-CN. Ở các trường đại học có 74.217 người, chiếm 45%, các viện/trung tâm nghiên cứu: 37.481 người, chiếm 23%, số còn lại ở các cơ sở khác. Với cơ cấu như vậy, nguồn ngân sách cũng cần phải cơ cấu lại mới tránh được tình trạng lãng phí chất xám và sử dụng nguồn nhân lực không hiệu quả.

Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, về mặt thể chế và mô hình. Trong thời gian rất dài chúng ta phát triển kinh tế theo chiều rộng, mà đã phát triển kinh tế theo chiều rộng thì thường sẽ thâm dụng vốn, sử dụng lao động giá rẻ và trình độ thấp, xuất khẩu tài nguyên chế biến thô là chính, trình độ sử dụng công nghệ thấp. Mô hình này không tạo ra thị trường và động lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng KH-CN. Đây là vấn đề “then chốt”, vì với hệ thống sản xuất như thời gian vừa qua không thể thúc đẩy liên kết giữa cung và cầu cho KH-CN được. Cầu của KH-CN hiện nay có thể kể tới mấy loại: Từ phía các cơ quan của Đảng, Nhà nước sử dụng KH-CN, từ phía doanh nghiệp, từ sản xuất, kinh doanh và từ các tổ chức KH-CN.

Việc chuyển giao KH-CN qua các dự án của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chưa thực sự là cầu nối đối với KH-CN trong nước; Doanh nghiệp nhà nước phát triển theo chiều rộng, nhập công nghệ nước ngoài là chính, có rất ít doanh nghiệp đầu tư cho phát triển KH-CN (trừ Viettel, Dầu khí, Vinaphone và một số doanh nghiệp lớn có một bước đột phá đầu tư lớn cho KH-CN). Trong số các doanh nghiệp dân doanh thì có tới 90% - 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ dù rất muốn đầu tư cho KH-CN nhưng cũng không có đủ tiềm lực, không thể tiếp cận về kinh phí theo ngân hàng. Nước ta có 2 trung tâm KH-CN lớn nhất là Viện Hàn lâm khoa học xã hội và Viện Hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam, nhưng hằng năm Nhà nước đặt hàng những nhiệm vụ trực tiếp cho 2 viện này rất ít.

Thứ hai, cơ chế phát triển kinh tế và cơ chế phát triển KH-CN chưa thực sự gắn chặt với nhau, kinh tế chưa đặt hàng được cho KH-CN, vì thế KH-CN nghiên cứu xong cũng ít có điều kiện để ứng dụng. Nhìn vào các đề tài nghiên cứu cấp nhà nước đã được triển khai, chúng ta thấy rất ít các đề tài được các doanh nghiệp đặt hàng, mà chủ yếu từ các cơ quan nghiên cứu khoa học, từ các nhà khoa học. Có một điều đáng nói là, một số sản phẩm KH-CN ra đời từ thực tiễn cuộc sống, từ nhu cầu sản xuất, kinh doanh do người dân sáng tạo có hiệu quả lại không tiếp cận được nguồn vốn, không được tài trợ từ nguồn ngân sách nhà nước cho KH-CN.

Thứ ba, về cơ chế phát triển KH-CN. Vấn đề này liên quan nhiều đến sử dụng ngân sách nhà nước cho KH-CN. Đây là vấn đề vẫn bị ràng buộc theo quan điểm chỉ chủ yếu cấp kinh phí cho tổ chức KH-CN, doanh nghiệp nhà nước. Nếu chúng ta không “gỡ bỏ” được quan niệm này thì không thể huy động tốt các nguồn lực từ xã hội và khó sử dụng ngân sách nhà nước hiệu quả.

Bên cạnh đó, phân loại nhiệm vụ KH-CN gắn với cơ chế phân bổ và sử dụng kinh phí hiện nay còn khá nhiều bất cập. Có 4 loại nghiên cứu: 1- Nghiên cứu cơ bản; 2- Nghiên cứu lý luận xây dựng cơ sở, chủ trương, chính sách; 3- Nghiên cứu ứng dụng triển khai; 4- Nghiên cứu phát triển sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mới. Về mặt pháp lý, ai là người chịu trách nhiệm quản lý nguồn kinh phí cho từng loại nghiên cứu, cấp cho ai, cấp theo cơ chế nào, trách nhiệm, đánh giá kết quả, thì phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhà nước, trước nhân dân. Theo đó, chúng ta cần nghiên cứu để hình thành một cơ chế cho rõ ràng và phù hợp. Có những kết quả nghiên cứu rất đúng, rất tốt nhưng vì không có cơ chế nên không có đơn vị sẵn sàng ứng dụng vào thực tiễn.

Thứ tư, xác định rõ trách nhiệm sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ KH-CN. Cấp được phân nhiệm vụ khoa học và cấp được cấp kinh phí phải chịu trách nhiệm về nhiệm vụ khoa học cũng như phân bổ kinh phí hợp lý. Với cách cấp kinh phí như hiện nay, người làm nhiệm vụ KH-CN phải mất nhiều thời gian để hoàn thành các thủ tục hành chính và bức xúc với tình trạng tham nhũng trong khoa học.

Kiến nghị một số giải pháp

Các nhiệm vụ KH-CN trọng tâm giai đoạn 2016 - 2020: 1- Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động KH-CN; 2- Tập trung các nguồn lực để triển khai các định hướng phát triển KH-CN chủ yếu; 3- Tiếp tục nâng cao tiềm lực KH-CN quốc gia; 4- Phát triển thị trường công nghệ, doanh nghiệp KH-CN và các hoạt động dịch vụ KH-CN; 5- Hợp tác và hội nhập quốc tế về KH-CN. Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên đòi hỏi tập trung triển khai một số giải pháp sau:

Một là, quán triệt nghiêm túc các nghị quyết của Đảng; các chủ trương, pháp luật của Nhà nước; hiểu rõ mọi thách thức và nắm bắt tốt mọi cơ hội trong phát triển KH-CN.

Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước luôn đặt một niềm tin lớn vào sự thắng lợi của chúng ta trong quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có KH-CN. Trên thực tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã vươn lên từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới trở thành một quốc gia được cả thế giới biết đến không chỉ trong chống giặc ngoại xâm mà cả trong công cuộc xây dựng đất nước, đặc biệt là thành tựu của gần 30 năm đổi mới. Hiểu rõ mọi thách thức và nắm bắt tốt mọi cơ hội là một việc rất quan trọng. Trong thời gian tới, chúng ta có nhiều cơ hội và thách thức lớn, có thể kể đến là:

- Ngày 5-10-2015 đã kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam bước vào một sân chơi mới - sân chơi của một khu vực rộng lớn, gồm 12 quốc gia có sản lượng buôn bán bằng 40% sản lượng toàn cầu. Sân chơi này không chỉ về thương mại mà tất cả các lĩnh vực, trong đó có KH-CN. Nếu KH-CN không thực sự vào cuộc tốt thì chất lượng sản phẩm và giá thành hàng hóa không thể cạnh tranh được, đồng nghĩa với nó là chúng ta sẽ thất bại. Nếu biết tận dụng cơ hội, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau thì KH-CN sẽ phát triển một cách nhanh chóng.

- Giai đoạn này là thời điểm mà nhiều nước, nhất là các nước lớn đang tìm mọi cách để “bành trướng” ra thế giới, Việt Nam coi trọng mục tiêu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế một cách hòa bình nên thời gian tới sẽ là cơ hội phát triển của chúng ta. Nếu mềm mỏng, khôn ngoan sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tiếp nhận những công nghệ hiện đại nhất cho tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc, đi với đó là đầu tư cho xây dựng quân đội cách mạng, tinh nhuệ, chính quy, hiện đại.

- Đổi mới tư duy quản lý KH-CN không nhất thiết ban hành nhiều văn bản mà cần các văn bản thực chất, chuẩn mực, chất lượng và được gắn với nhóm tác giả, chuyên gia đã soạn. Trả lương cho cán bộ KH-CN với nhiệm vụ và định mức xác định cho từng loại cán bộ, phần “kinh phí nghiên cứu” gắn với hiệu quả khoa học “gia tăng” của cán bộ đó trong năm trước. Không có kết quả gia tăng sẽ không cấp kinh phí nghiên cứu cho năm sau...

- Nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên sâu, nghiên cứu sinh, thực tập sinh làm việc theo nhóm. Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch để kinh phí được cấp phân bổ kịp thời, hợp lý và khắc phục tình trạng giao kinh phí chậm trễ. Nếu không có định mức đúng thì cơ chế khoán không thành công, công tác thanh quyết toán các đề tài sẽ không rõ ràng, rành mạch.

Hai là, phân bổ và sử dụng ngân sách phải thực sự khoa học, hướng tới hiệu quả, theo cơ chế thị trường. Đổi mới việc xác định nhiệm vụ và cấp kinh phí KH-CN cho các địa phương, địa bàn. Nhiệm vụ KH-CN nói chung có tính liên thông, liên kết tất cả vùng, không bị “chặn” ở “biên giới” một địa phương nào đó. Đây là vấn đề cần thiết xem xét kỹ, sau khi xác định rõ tất cả các loại nhiệm vụ KH-CN từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng triển khai, đến nghiên cứu phát triển sản phẩm thì phải có cơ chế bảo đảm để có hiệu quả. Sản phẩm phải có sức cạnh tranh trên thị trường; những sản phẩm mới, nghiên cứu khoa học phải đến được các doanh nghiệp. Bởi doanh nghiệp là nơi quy tụ của sự phát triển ứng dụng KH-CN để tạo thành sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong ngân sách cho KH-CN phải dành một phần để làm “vốn mồi”, phải có cơ chế để kéo vốn, để thu hút các nguồn lực kể cả trong và ngoài nước. Cần bố trí nguồn kinh phí dự phòng cho khoa học, vì hoạt động KH-CN có tính rủi ro cao, cắt giảm những hoạt động KH-CN không chất lượng nhằm chống lãng phí, thất thoát ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế khoán; đấu thầu phải theo kịp với sự phát triển của thời đại. Phải có niềm tin với người được cấp kinh phí.

Ba là, tăng cường giám sát và đánh giá tình hình sử dụng và phân bổ ngân sách bằng những chỉ tiêu thực sự khoa học. Theo đó, phải tăng quy định và giám sát tình hình sử dụng, phân bổ ngân sách bằng những tiêu chí thực sự khoa học; kiểm toán thực hiện các quy định về quản lý các chương trình đề tài kể cả cấp nhà nước, chống hình thức. Cần giám sát kỹ việc sử dụng ngân sách phù hợp với kế hoạch được phê duyệt; có hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các đơn vị KH-CN theo tinh thần mới. Có thể hình thành hai nhóm: nhóm một với kinh phí hoạt động hoàn toàn nhờ thị trường, nhóm hai có sử dụng ngân sách nhà nước. Xây dựng và triển khai các quy định về dân chủ trong hoạt động KH-CN, công khai, dân chủ thì mới có thể phát triển KH-CN, nhất là trong khoa học xã hội để không thành khoa học theo kiểu minh họa.

Bốn là, xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho KH-CN; thu hút đầu tư từ doanh nghiệp, coi đây là nguồn lực chính. Nhà nước phải coi đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước, đặc biệt là từ các doanh nghiệp cho KH-CN là chính, tiến tới đầu tư cho KH-CN chủ yếu từ doanh nghiệp như các nước tiên tiến đã làm.

Theo đó, cần hiểu rõ bản chất hoạt động của doanh nghiệp là phải có hiệu quả thiết thực, nên việc tiếp cận với nghiên cứu KH-CN của doanh nghiệp có những nét riêng so với các tổ chức KH-CN công lập. Khi doanh nghiệp đặt yêu cầu thì cần phải có ngay, nếu chậm cơ hội thị trường sẽ mất đi. Nắm được yếu tố đó chúng ta cần điều chỉnh làm sao cho ngân sách của các doanh nghiệp dành cho KH-CN ngày một nhiều hơn.

Cần có cơ quan theo dõi, tổng hợp, phân tích các hoạt động KH-CN không dùng ngân sách nhà nước để tham mưu cho Nhà nước các giải pháp đột phá trong việc thu hút đầu tư và phát triển KH-CN. Nhiều doanh nghiệp báo cáo đã dành gần 10% lợi nhuận của các doanh nghiệp làm nguồn vốn cho KH-CN. Đây là nguồn lực lớn, cần giám sát việc sử dụng kính phí.

Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung về việc cần thiết đầu tư cho phát triển KH-CN. Cung cấp thông tin và định hướng thị trường công nghệ cho doanh nghiệp và có những hỗ trợ ban đầu cho hoạt động KH-CN. Bổ sung những chế độ tiếp cận ngân sách nhà nước cho hoạt động KH-CN từ phía các nhà khoa học không chuyên. Công khai hóa các kết quả nghiên cứu trên mạng in-tơ-nét để mọi người có thể tìm đọc, nghiên cứu tự do.

Thời đại của chúng ta là thời đại mà KH-CN phát triển nhanh như vũ bão. Để KH-CN phát triển, bên cạnh tố chất của con người thì cần phải có thể chế, cơ chế phù hợp để con người có cơ hội phát huy được trí tuệ của mình và đóng vai trò quyết định trong hoạt động KH-CN. Với tố chất của con người Việt Nam, trong thời gian tới, nếu có cơ chế, chính sách phù hợp hơn thì KH-CN Việt Nam nhất định sẽ phát triển hơn./.

--------------------------------------------

(1) Luật Khoa học và Công nghệ (năm 2000); Luật Sở hữu trí tuệ (năm 2005), Luật Chuyển giao công nghệ (năm 2005), Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (năm 2006), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (năm 2007), Luật Công nghệ cao (năm 2008), Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (năm 2010), Luật Đo lường (năm 2011)

 

Theo Tạp chí Cộng sản