Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9-7-1912 trong một gia đình nhà nho yêu nước ở xã Phù Khê, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1927, đồng chí bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước. Đầu năm 1928 đã trở thành hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sau đó, đồng chí đi “vô sản hóa” ở vùng mỏ Đông Bắc và tháng 6-1929, được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Năm 1930, đồng chí thành lập chi bộ đảng đầu tiên ở Vùng mỏ Quảng Ninh, rồi được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai - Uông Bí, sau đó vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1938, đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng khi mới 26 tuổi.

Đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn cùng với một số đảng viên khác vào tháng 6-1940 và bị kết án tử hình. Ngày 28-8-1941, bản án được thi hành tại trường bắn Hóc Môn (Bà Điểm), đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần đã bị thực dân Pháp xử bắn và hy sinh anh dũng vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, xin giới thiệu một số nội dung cơ bản trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, một trong những tác phẩm để lại dấu ấn đậm nét về những đóng góp của đồng chí đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giúp cho Đảng giữ được ngọn cờ tiên phong trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc thời bấy giờ.

1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm

“Tự chỉ trích” ra đời vào tháng 7-1939, tức là vào cuối giai đoạn 1936-1939, thời kỳ gắn với phong trào dân chủ và Chính phủ Bình dân ở Pháp. Nhưng đến cuối giai đoạn này, tình hình thực tiễn trên trường quốc tế và trong nước đã có những thay đổi, đòi hỏi cần có sự chuyển hướng chiến lược và phương pháp cách mạng.

Sự xuất hiện trục phát-xít Đức - Ý - Nhật và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới đã đến gần; chính quyền thực dân đẩy mạnh việc thực thi các chính sách phản động, khủng bố, bắt bớ những người cộng sản. Ở Đông Dương, thực dân Pháp ra sức vơ vét của cải, tiền bạc, sức người để phục vụ cho chiến tranh. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng, thủ tiêu những quyền dân sinh, dân chủ tối thiểu mà nhân dân ta đã giành được trong những năm 1936-1938. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với thực dân Pháp ngày càng trở nên gay gắt.

Tình hình đó, khẩu hiệu đòi dân sinh, dân chủ, đấu tranh nghị trường, cách mạng ruộng đất và chính quyền Xô-viết công nông không còn thích hợp nữa. Vấn đề đặt ra trong lúc này là phải chuyển mục tiêu cách mạng dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp chống chủ nghĩa phát-xít, đánh đổ đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Những biến động đó đã tác động vào nội bộ Đảng ta - một Đảng còn non yếu và thiếu kinh nghiệm, với nhiều luồng tư tưởng lệch lạc trong nhận thức tình hình và trong hành động, xuất hiện chủ nghĩa bè phái, sự bất đồng ý kiến trong nội bộ Đảng, sự thiếu tập trung thống nhất và phương pháp đấu tranh tập hợp lực lượng, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Kẻ thù đã ra sức lợi dụng để khoét sâu mâu thuẫn, nhằm chia rẽ Đảng, làm yếu phong trào đấu tranh của quần chúng.

Để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên, vấn đề đặt ra lúc này là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; vấn đề mục tiêu và phương pháp cách mạng; vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng; đồng thời cần tổng kết những kinh nghiệm của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ.

Trong bối cảnh đó, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích” với bút danh Trí Cường và hoàn thành vào tháng 6-1939.

2. “Tự chỉ trích” với phê bình và tự phê bình

a. Mục đích của “Tự chỉ trích”:

Là phải thông qua phê bình và tự phê bình trong Đảng để “tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiên thủ”(1). Trong “Tự chỉ trích”, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ rõ “Người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi họ, hay phỉnh họ… Và dẫu cho có sai lầm, có thất bại thì phải có can đảm “mở to mắt ra nhìn sự thật”(2). “Chúng ta không bao giờ có thể đổ hết những nguyên nhân thất bại cho việc quân thù đàn áp và cử tri chưa giác ngộ. Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính ta gây ra, chính ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm”(3). Đồng chí Nguyễn Văn Cừ nhấn mạnh: “Phê bình Đảng là để thống nhất tư tưởng, để rèn luyện mình, để đề cao uy tín và ảnh hưởng của Đảng, nhằm làm cho Đảng ngày càng mạnh và cách mạng ngày càng phát triển. Muốn vậy, phê bình phải nắm vững mục đích xây dựng Đảng, xây dựng đồng chí mình, không được đả kích hoặc cường điệu những sai lầm khuyết điểm của đồng chí mình”(4).

b. Nội dung đấu tranh phê bình và tự phê bình là:

- Uốn nắn những lệch lạc trong phong trào dân chủ như chủ quan, tả khuynh, hữu khuynh, nội bộ mất đoàn kết; sai lầm trong phương thức vận động quần chúng… Những sai lầm, khuyết điểm này ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới việc thực hiện các mục tiêu chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho rằng “Đảng có bổn phận phải phân tích xác thực hoàn cảnh, không bi quan, hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự mãn để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa chữa và tiến thủ”(5).

- Thấy rõ khuyết điểm, sai lầm để sửa chữa và phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ Đảng như xu hướng “tả khuynh”, cô độc nó muốn làm Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng và xu hướng thỏa hiệp, hữu khuynh, lung lay trước tình hình nghiêm trọng, nhãng quên, hoặc che lấp sự tuyên truyền của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh.

c. Về phương pháp phê bình và tự phê bình:    

 - Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, đồng chí Nguyễn Văn Cừ yêu cầu: “Phê bình và tự phê bình phải tôn trọng sự thật, công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ bị địch lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ nối giáo cho giặc. Trái lại, nếu đóng kín cửa bảo nhau, giữ cái vỏ thống nhất bề ngoài mà bên trong thì hổ lốn một cục, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa…”(6). Đồng chí nhấn mạnh: “Không mạnh dạn, thẳng thắn đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng thì đó không phải một Đảng tiền phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”(7). Đồng chí còn chỉ rõ: “Mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận, tự do chỉ trích, miễn là sự thảo luận luôn luôn mang tinh thần Bôn-sê-vich, không làm giảm uy tín của Đảng, nhằm làm cho kẻ thù không thể hí hửng tìm ở đây một sự chia rẽ hay mầm bè phái gì giữa những người cộng sản. Vì trong thảo luận, tiểu số phục tùng đa số, chỉ có một ý chí duy nhất là ý chí của Đảng, nghìn người như một để thực hành ý chí ấy”(8).

  - Phê bình và tự phê bình phải giữ vững nguyên tắc Lê-nin-nít trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng Đảng. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ khẳng định: “Bao giờ sự chỉ trích cũng là tự chỉ trích Bôn-sê-vich, nghĩa là để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, giao mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái, chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”(9). Đồng chí cho rằng: “Phê bình và tự phê bình phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Đối với uy tín của Đảng thì danh dự cá nhân mình không có nghĩa lý gì, hay nói đúng ra không có nữa, vì một người đảng viên cộng sản chỉ biết lấy uy tín, lấy danh dự chung của toàn Đảng làm danh dự của mình thôi”(10).  
- Về căn cứ xuất phát của phê bình và tự phê bình, đồng chí Nguyễn Văn Cừ chỉ rõ: “Phải đứng về lợi ích, về công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm, những chỗ lừng chừng hoặc hèn nhát để đẩy phong trào phát triển rộng rãi, mạnh mẽ hơn”(11). Chính như vậy, “Tự chỉ trích” đã góp phần sửa chữa những khuyết điểm của Đảng về tổ chức, lề lối làm việc của thời kỳ trước, xây dựng, củng cố và chỉnh đốn đảng, tổ chức lại các hoạt động của Đảng chống lại tư tưởng cô độc, hẹp hòi trong hàng ngũ Đảng, đáp ứng sự phát triển của phong trào cách mạng trong tình hình mới.

3. Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời sự hôm nay

“Tự chỉ trích” một tác phẩm không chỉ thể hiện sự sắc sảo về chính trị, lý luận và thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiến thủ, còn chỉ dẫn cho chúng ta về tính đảng, tính nguyên tắc, tính kiên định cách mạng, cũng như về đạo đức trong phê bình và tự phê bình.

Tác phẩm đã góp phần quan trọng vào việc giáo dục, giác ngộ chính trị cho đảng viên, tập hợp lực lượng quần chúng trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương, chống lại bọn Tờ-rốt-kít và khắc phục tình trạng bất đồng ý kiến xuất hiện trong Đảng lúc đó. Chính Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã trực tiếp tham gia vào cuộc bút chiến phê phán những sai lầm “tả” khuynh về quan điểm chính trị, sai lầm về nguyên tắc tổ chức, về phê bình và tự phê bình, về đoàn kết trong Đảng. Đồng thời xác định rõ những vấn đề chiến lược, sách lược của Đảng. Những bài báo, đặc biệt là tác phẩm “Tự chỉ trích” do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết thể hiện nhuần nhuyễn Chủ nghĩa Mác - Lênin về những vấn đề chiến lược, chỉ đạo chiến lược trong phong trào cách mạng. Đây là một tác phẩm tổng kết thực tiễn sâu sắc, đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận của Đảng ta.

“Tự chỉ trích” còn có giá trị chuẩn bị về mặt lý luận và tư tưởng cho thành công của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939, tức là hai tháng sau chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trong hội nghị này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và Ban Chấp hành Trung ương đã nhanh chóng quyết định chuyển hướng chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng phù hợp với thực tiễn thời cuộc lúc đó.   

"Tự chỉ trích" là một văn kiện lịch sử của Đảng, đã uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong phong trào dân chủ, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Tác phẩm là một văn kiện tổng kết thực tiễn những kinh nghiệm của Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, là một đóng góp có giá trị vào kho tàng lý luận và chính sách về Mặt trận dân tộc thống nhất; về thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng của Đảng ta.

Mục đích, phương pháp luận, tính đảng, tính chiến đấu của phê bình và tự phê bình trong “Tự chỉ trích” của đồng chí Nguyễn Văn Cừ là những bài học quý giá, không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn mang tính thời sự ngày nay, cần được học tập và vận dụng trực tiếp vào đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Nhất là khi toàn Đảng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong bốn nhóm giải pháp, nhóm giải pháp đầu tiên là thực hiện tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên.

----------   
(1,5) Tự chỉ trích, Văn kiện Đảng toàn tập, NXBCTQG, H. 2000, tập 6, tr.620; (2) Tự chỉ trích, Sđd, tr.627; (3,6,7,8) Tự chỉ trích, Sđd, tr.624, 625. (4) Sđd, tr.645. (9,10) Sđd, tr.623, 624. (11) Sđd, tr.640.

TS. Đặng Đình Tân