Phùng Xuân Nhạ
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trước viễn cảnh về sự
phát triển của giáo dục trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
Việt Nam chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn khi nền giáo dục của
chúng ta đang còn quá nặng về truyền tải kiến thức mà chưa hướng đến phát triển
phẩm chất và năng lực của người học; chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản
lý chưa đồng đều; hệ thống cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế.
Bối cảnh của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư lan rộng
khắp thế giới như ngày hôm nay là do trong thực tế, tốc độ phát triển và tác
động của những đột phá trong công nghệ đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ chưa từng
có. Các sáng chế và tiến bộ khoa học có mặt ở khắp các lĩnh vực, như trí tuệ
nhân tạo, Robotics, in-tơ-nét vạn vật (IoT), xe tự lái, công nghệ sinh học,
công nghệ Na-no, công nghệ in 3D, khoa học vật liệu, máy tính lượng tử,... tác
động đến hầu hết các ngành công nghiệp với một tốc độ nhanh đến mức người ta nói
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển theo tốc độ của hàm
mũ(1).
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đóng một
vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cho phép chúng ta
có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngược lại, cuộc cách mạng này cũng có thể dẫn đến
sự bất bình đẳng thậm chí còn cao hơn khi các công nghệ mới sẽ thay thế các
công việc sử dụng nhiều lao động. Đây được coi là thách thức lớn nhất do cuộc
cách mạng này mang lại. Bên cạnh đó, còn một thách thức khác là làm sao để tạo
ra các công việc yêu cầu kỹ năng cao hơn dành cho con người khi các công nghệ
tự động đã và đang thay thế lao động trong rất nhiều các công việc hằng
ngày(2).
Như vậy, cụm từ “cách mạng công nghiệp” hàm
chứa sự thay đổi lớn lao, không chỉ biến đổi kinh tế mà còn biến đổi cả văn
hóa, xã hội một cách toàn diện. Việt Nam đang dịch chuyển rất nhanh từ cấu trúc
“dân số vàng” sang giai đoạn già hóa dân số. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư cần được nhìn nhận như là cơ hội để chúng ta tăng năng suất lao động dựa
trên những ứng dụng khoa học kỹ thuật, tận dụng hiệu quả cơ cấu “dân số vàng”
hiện nay. Chắc chắn rằng, giáo dục và đào tạo sẽ đóng vai trò then chốt để giải
quyết bài toán lớn này.
Tác động của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đối với giáo dục
Một trong những yêu cầu để chuẩn bị cho cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cải thiện nguồn vốn con người để có thể đáp
ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục thay đổi trong môi trường
lao động mới. Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo sứ mệnh to lớn là chuẩn
bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Vấn đề mà nhiều
quốc gia đều nhận thấy và đặt ra đó là chuyển từ một nền giáo dục nặng về trang
bị kiến thức, kỹ năng cho người học sang một nền giáo dục giúp phát triển năng
lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học, đáp ứng những yêu cầu đặt ra
cho công dân trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(3).
Với dòng chảy của các mô hình học tập mới cùng
sự phát triển của khoa học công nghệ, các phương pháp giáo dục truyền thống
chắc chắn sẽ chịu nhiều thách thức.
Một trong những điểm nổi bật là sự phân hóa
đến từng đối tượng người học. Mỗi học sinh có nhu cầu và khả năng học tập khác
nhau. Các tiến bộ về công nghệ cho phép các nhà giáo dục có thể thiết kế lộ
trình học tập riêng biệt phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Các phần mềm giáo
dục đã được đưa vào sử dụng có khả năng thích nghi với năng lực của mỗi học
sinh và cho phép học sinh theo học với tốc độ phù hợp với nhu cầu của bản thân.
Tại nhiều nước, các phần mềm học tập thích ứng này đã nhanh chóng thay thế từng
phần hoặc toàn bộ vai trò của sách giáo khoa trong lớp học.
Bên cạnh đó, việc tiếp cận thông tin trở nên
dễ dàng hơn bao giờ hết dẫn đến một câu hỏi mà các nhà giáo dục cần phải trả
lời là xác định kiến thức cốt lõi mà người học cần được trang bị trong tương
lai. Trong khi các mô hình giáo dục trong quá khứ tập trung vào việc cung cấp
cho người học các kiến thức, kỹ năng cần thiết để giúp họ trở thành những người
có tay nghề chuyên môn cao, các nhà giáo dục ngày nay quan tâm nhiều hơn đến
việc dạy học sinh cách tự học. Giáo dục dạy cho học sinh học cách tư duy, cách
đánh giá các tình huống, các vấn đề phức tạp trong cuộc sống, qua đó hình thành
năng lực giải quyết vấn đề.
Công nghệ phát triển có ảnh hưởng lớn đến vai
trò của người giáo viên trong lớp học. Hệ thống quản lý trường học với sự hỗ
trợ của công nghệ có thể cung cấp hệ thống dữ liệu giúp giáo viên theo dõi sự
tiến bộ của mỗi lớp học, qua đó có những phản hồi ngay lập tức với những khó khăn
mà học sinh đang gặp phải. Nhưng công nghệ dù hiện đại và quan trọng đến đâu
cũng không thay thế được vai trò của giáo viên hoặc biến người giáo viên thành
rô-bốt. Bởi vậy, làm thế nào để tận dụng và làm chủ công nghệ, để công cụ này
hỗ trợ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong giáo dục là một thách thức với mỗi
giáo viên và cơ sở giáo dục.
Những thay đổi nói trên chính là sự gợi mở về
cách các mô hình giáo dục có thể vận hành trong thời gian tới: các máy tính
hoạt động như những công cụ hỗ trợ cá nhân trong lớp học với nhiều lộ trình học
tập đa dạng; giáo viên và cha mẹ học sinh được trang bị tốt hơn để hiểu quá
trình học tập của học sinh; lớp học được chia thành các nhóm nhỏ gồm các học
sinh có trình độ, kỹ năng phù hợp để làm việc cùng nhau.
Thách thức và cơ hội đối với
giáo dục Việt Nam
Trước viễn cảnh về sự phát triển của giáo dục
trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, giáo dục Việt Nam có những
thuận lợi căn bản để đón nhận cơ hội phát triển mà cuộc cách mạng công nghiệp
này mang đến.
Đảng và Nhà nước ta
luôn dự liệu trước những thách thức trong hoạt động giáo dục cho thế hệ tương
lai. Ngày 04-11-2013, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình
giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Ngày 04-5-2017,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg Về việc tăng cường năng lực tiếp cận Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư với nhiều giải pháp quan trọng. Trong đó, Thủ tướng
yêu cầu thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục nhằm
tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới.
Ngày 05-5-2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gửi Công văn số 1891/BGDĐT-GDĐH tới
tất cả các cơ sở giáo dục đại học để định hướng chỉ đạo về đào tạo nguồn nhân
lực có khả năng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ năm
2018, đây sẽ là một trong các nội dung cơ bản để đánh giá, định hướng phát
triển cho toàn ngành.
Bên cạnh đó, một trong những thuận lợi rất căn
bản để giáo dục tận dụng cơ hội phát triển là xã hội Việt Nam luôn coi trọng
việc học. Chúng ta luôn được đánh giá cao trong việc tạo môi trường học tập
tích cực, bảo đảm kỷ cương, nền nếp trường học và giúp học sinh có thái độ học
tập tốt. Sự tham gia, khuyến khích lớp trẻ từ các bậc cha mẹ học sinh cũng là
yếu tố tích cực trong việc hình thành một xã hội học tập.
Thuận lợi thứ ba là đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục, giáo viên - lực lượng đóng vai trò then chốt trong công cuộc đổi mới
giáo dục - luôn được quan tâm, đầu tư và hỗ trợ tăng cường năng lực. Các chuẩn,
quy chuẩn về nghề nghiệp của cán bộ quản lý các cấp, giáo viên đang được chuẩn
bị ban hành. Các chuẩn, quy chuẩn đó sẽ là những công cụ hỗ trợ cán bộ quản lý,
giáo viên trong công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực để có thể đáp ứng được
những yêu cầu trong giai đoạn mới.
Tuy vẫn còn nhiều quan ngại về chương trình
học tập của Việt Nam chưa gắn với thực tiễn, những kết quả cao trong kỳ sát
hạch PISA, kỳ thi khoa học và kỹ thuật quốc tế Intel ISEF, các kỳ thi Olympic
quốc tế và khu vực góp phần khẳng định nền giáo dục của chúng ta đã bắt đầu có
sự chuyển động, chú trọng hướng học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết các
vấn đề có tính thực tiễn, thay vì chỉ học thuộc nội dung từ sách giáo khoa. Kết
quả này cũng thể hiện được tiềm năng về nguồn nhân lực của chúng ta trong các
lĩnh vực toán và khoa học nếu được đầu tư phù hợp.
Thêm vào đó, chương trình giáo dục của Việt
Nam luôn đề cao việc giúp học sinh đạt được sự hiểu biết sâu sắc về những khái
niệm cốt lõi và khả năng làm chủ kiến thức. Chương trình giáo dục phổ thông mới
sẽ được đưa vào triển khai từ năm 2019, chuyển từ cách tiếp cận nội dung sang
phát triển năng lực và phẩm chất sẽ là tiền đề cho công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục phổ thông.
Thời gian qua, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã đẩy mạnh chủ trương để các trường tự chủ hơn trong triển khai
chương trình giảng dạy và kiểm tra đánh giá. Những đổi mới này mang đến những
hiệu quả tích cực trong chất lượng giáo dục của chúng ta. Trong báo cáo gần đây
của Ngân hàng Thế giới Tăng trưởng thông minh hơn: Học
tập và Phát triển công bằng ở Đông Á - Thái Bình Dương(4), Việt Nam
cùng với Trung Quốc được đánh giá là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo
dục, có hệ thống giáo dục phát triển thật sự ấn tượng, có thể trở thành những
bài học kinh nghiệm quan trọng cho các quốc gia khác.
Một số định hướng đối với giáo
dục Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trong làn sóng công nghiệp hóa mới, hệ thống
giáo dục phải tập trung vào phát triển phẩm chất và năng lực của người học
thông qua việc định hướng các con đường phù hợp nhất cho các nhóm học sinh,
sinh viên khác nhau để giúp họ phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân. Điều
này cần được áp dụng ở tất cả các cấp học, các trình độ đào tạo. Đặc biệt, đối
với các trường đại học, thành công của một trường đại học không chỉ đơn thuần
là tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp, khả năng tìm kiếm việc làm của sinh viên hay vị
trí trên bảng xếp hạng quốc tế, mà còn là sự phát triển bền vững và lâu dài của
sinh viên, khả năng sẵn sàng chấp nhận rủi ro, năng lực đổi mới và sáng tạo của
sinh viên.
Để làm được như vậy, chúng ta cần khẳng định
tầm quan trọng của một hệ thống giáo dục hỗ trợ học tập suốt đời. Toàn bộ hệ
thống giáo dục phải nhận ra sự đa dạng về thế mạnh và tài năng của giới trẻ.
Chỉ có quá trình học tập theo niềm đam mê mới có thể giúp xây dựng một thế hệ
mới có bản lĩnh, với khả năng tự định hướng và kiên định theo đuổi các mục
tiêu.
Sau đây là một số định hướng cho giáo dục Việt
Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Một là, gắn việc dạy và học với
thực tiễn.
Giáo dục cần phải mô phỏng và chuẩn bị cho
người học bước vào cuộc sống thực tiễn càng nhiều càng tốt khi công nghệ đã làm
cho khả năng tiếp cận kiến thức trở nên dễ dàng khiến kiến thức không còn mang
ý nghĩa “bảo hiểm” cho tương lai của người học như trước đây(5). Một trong
những cách tiếp cận phù hợp là tăng cường giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ
thuật và toán học (giáo dục STEM) trong nhà trường. Theo đó, học sinh sẽ được
trang bị kiến thức gắn liền với những ứng dụng của chúng trong thực tiễn; được
trải nghiệm tìm tòi, khám phá công nghệ gắn với kiến thức được học trong chương
trình giáo dục; được khuyến khích sáng tạo khoa học, kỹ thuật nhằm cải thiện
phát triển công nghệ mới. Đây là một cách tiếp cận liên môn nhằm trang bị cho
người học những kiến thức, kỹ năng để người học có thể áp dụng để giải quyết
vấn đề trong cuộc sống.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thí điểm
giáo dục STEM tại 15 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông thuộc các
tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định và Quảng Ninh. Kết quả
thí điểm cho thấy, giáo dục STEM hướng học sinh đến những ý tưởng địa phương
gần gũi, những câu lạc bộ ngoài giờ học đầy đam mê và sự thay đổi phần nào
trong cách dạy, cách học bộ môn khoa học.
Hai là, đa dạng hóa các lộ
trình giáo dục.
Mỗi học sinh sẽ có nhu cầu và khả năng học tập
khác nhau và nhiệm vụ của giáo dục là phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để
người học xác định và theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi
hỏi hệ thống giáo dục cần cung cấp các lộ trình giáo dục đa dạng để phục vụ cho
những khuynh hướng học tập và phong cách học tập khác nhau của mỗi cá nhân.
Chương trình giáo dục phổ thông mới đã có những bước thay đổi cơ bản với việc
tích hợp nội dung ở bậc tiểu học và trung học cơ sở, phân hóa mạnh ở cấp trung
học phổ thông, đẩy mạnh định hướng nghề nghiệp và phân luồng trong giáo dục phổ
thông.
Ba là, khuyến khích học tập
suốt đời.
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục là phát hiện và nuôi dưỡng tài năng, khuyến khích sự theo đuổi, đam mê
và nhu cầu học tập suốt đời của người học. Để đạt được mục tiêu này, một thay
đổi lớn là cơ cấu lại hệ thống các trung tâm giáo dục thường xuyên và các trung
tâm học tập cộng đồng, thay đổi các khuôn mẫu truyền thống để xây dựng các
trung tâm học tập suốt đời. Đây cũng là giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng
hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” theo tinh
thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI.
Bốn là, đẩy mạnh dạy và học
ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong học
tập và quản lý.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học
ngoại ngữ giai đoạn 2017 - 2025(6) với một số định hướng, như “tạo bước đột phá
về chất lượng dạy và học ngoại ngữ cho các cấp học và trình độ đào tạo, khuyến
khích đưa ngoại ngữ vào nhà trường từ bậc mầm non và các hoạt động xã hội. Đẩy
mạnh dạy ngoại ngữ tích hợp trong các môn học khác và dạy các môn học khác (như
toán và các môn khoa học, môn chuyên ngành...) bằng ngoại ngữ. Đẩy mạnh ứng
dụng công nghệ tiên tiến trong dạy và học ngoại ngữ với hệ thống học liệu điện
tử phù hợp mọi đối tượng để người học có thể học ngoại ngữ, tiếp cận tiếng bản
ngữ mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, đặc biệt trong phát triển kỹ năng
nghe và kỹ năng nói. Tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và
xã hội để giáo viên, giảng viên, thành viên gia đình và người học (học sinh,
sinh viên...) cùng học ngoại ngữ...”.
Bên cạnh đó, chương trình giáo dục của chúng
ta cần bảo đảm cho người học được trang bị những hiểu biết về kỹ thuật số và
công nghệ ở tất cả các cấp bậc học để dễ dàng tiếp cận những tiến bộ về khoa
học và công nghệ. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn ngoại ngữ và
môn tin học đã trở thành các môn học bắt buộc ngay từ đầu cấp tiểu học.
Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý giáo dục cũng cần được đặc biệt chú trọng. Ngành giáo dục đang
tiếp tục đẩy mạnh tin học hóa trong quản lý, quyết tâm xây dựng hệ thống thông
tin kết nối thông suốt giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các sở giáo dục và đào
tạo, xây dựng cơ sở dữ liệu chung của toàn ngành.
Năm là, nâng cao năng lực và mở
rộng vai trò của các trường đại học.
Để tăng cường tính cạnh tranh của nguồn nhân
lực, bên cạnh việc không ngừng nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và giảng
dạy, các trường đại học cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc
thực hiện sứ mệnh đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo. Tác động của một
trường đại học sẽ không còn giới hạn trong việc giáo dục và thay đổi cuộc sống
của sinh viên. Đại học phải là bệ đỡ thúc đẩy sáng tạo, cung cấp một bệ phóng
cho các doanh nhân trong tương lai và các công ty khởi nghiệp, giữ nhịp phát
triển cho các ngành công nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp đến
năm 2025(7); chỉ đạo các trường đổi mới công tác xây dựng chương trình đào tạo,
trong đó có sự tham gia của các nhà quản lý, các nhà sử dụng lao động; xây dựng
và công bố chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo; hỗ trợ việc phối hợp giữa
các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động trong
việc đào tạo; chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học tăng cường hợp tác với các
doanh nghiệp để gắn đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động trong và ngoài
nước.
Các trường đại học cũng cần đón đầu xu hướng
là thời gian đào tạo người lao động trình độ cao sẽ không chỉ giới hạn trong 4
hay 5 năm, mà là trong suốt cuộc đời lao động của họ, khi người học tiếp tục
quay trở lại để có thêm kiến thức và kỹ năng sau khi tốt nghiệp. Vì vậy, tư duy
cũ của nền giáo dục đón đầu sẽ thay đổi, khi các trường đại học xác định quá
trình học tập suốt đời như là một phần của sứ mệnh của mình. Để giúp các cơ sở giáo
dục đại học phát huy khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động,
tăng cường cạnh tranh và đa dạng hóa các loại hình giáo dục đào tạo, đáp ứng
yêu cầu về nguồn nhân lực của đất nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã khẩn trương
xây dựng Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học
trình Quốc hội phê duyệt và tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sau khi được sửa đổi. Bộ cũng đã
trình Chính phủ Nghị định về tự chủ đại học thay thế cho Nghị quyết số
77/NQ-CP, chính thức hóa tự chủ đại học là con đường tất yếu của giáo dục đại
học Việt Nam.
Tóm lại, để thành công trong những thập niên
tiếp theo, ngành giáo dục cần phải có một tầm nhìn xa trong bối cảnh chuyển đổi
liên tục của các hình thức tổ chức và các yêu cầu về kỹ năng. Theo đó, người
lao động trong tương lai sẽ cần phải có khả năng học tập suốt đời để sẵn sàng
cho các thay đổi. Các cơ sở giáo dục hiện nay chủ yếu là sản phẩm của kết cấu
hạ tầng công nghệ và hoàn cảnh xã hội trong quá khứ. Trước bối cảnh đang thay
đổi một cách nhanh chóng, các cơ sở giáo dục cần nhìn nhận lại để nâng cao khả
năng đáp ứng. Các cơ quan, doanh nghiệp cũng phải thích ứng với môi trường đang
thay đổi và cần phải xác định tầm quan trọng của việc xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực hướng đến mục tiêu phát triển bền vững thông qua hợp tác
với các trường đại học.
Để chuẩn bị cho thế hệ tương lai và tăng năng
lực cạnh tranh của người Việt Nam, chúng ta cần xây dựng một hệ thống giáo dục
thúc đẩy đổi mới và sáng tạo, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học
tập suốt đời và khả năng phát triển lâu dài của người học. Hơn hết, việc phân
bổ ngân sách một cách hiệu quả, đi kèm với cam kết chính trị mạnh mẽ đối với
giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra sự khác biệt cho tương lai của thế hệ trẻ Việt
Nam. /.
-----------------------------------------------------
(1) K. Schwab (2016):
The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-means-and-how-to-respond/
(2) K. Schwab (2017): The Fourth Industrial
Revolution, Crown Business Publisher
(3) B. Abersek (2017): Evolution of competences for
new era or Education 4.0, The XXV conference of Czech Educational
Research Association (CERA/CAPV) “Impact of Technologies in the Sphere of
Education and Educational Research”
(4) World Bank (2018): Growing Smarter: Learning &
Equitable Development in East Asia Pacific
(5) FICCI (2017): Leapfrogging to Education 4.0:
Student at the core, FICCI-EY Future of Skills and Jobs in India Report
(6) Quyết định số 2080/QĐ-TTg, ngày 22-12-2017, của Thủ tướng Chính phủ
về “Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ
thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017 - 2025”
(7) Quyết định số 1665/QĐ-TTg, ngày 30-10-2017, của Thủ tướng Chính phủ, Về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp
đến năm 2025”