PGS.TS Nguyễn Viết Thông
Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận
Trung ương
Trước thềm Đại hội
XIII của Đảng có quan điểm cho rằng: "Dự thảo các văn kiện trình Đại hội
XIII của Đảng vẫn như cũ, vẫn bảo thủ, thiếu sự đổi mới, sáng tạo, không chấp
nhận những giá trị chung của nhân loại". Đây là một quan điểm hoàn toàn
sai trái, cố tình xuyên tạc, phủ nhận những điểm mới, những nội dung mới được
bổ sung vào đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận,
thực tiễn những năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng. Bài viết xin làm rõ những luận cứ để phê phán quan điểm sai trái trên.
QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ DỰ THẢO CÁC
VĂN KIỆN ĐÃ THỂ HIỆN RÕ TINH THẦN ĐỔI MỚI
Để chuẩn bị dự thảo các văn kiện trình Đại hội
XIII của Đảng, ngay từ Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (tháng 10/2018), Ban Chấp
hành Trung ương đã quyết định thành lập 5 tiểu ban, trong đó có Tiểu ban Văn
kiện, Tiểu ban Kinh tế - xã hội, Tiểu ban Điều lệ Đảng. Hội nghị Trung ương 10
(tháng 5/2019) cho ý kiến vào dự thảo đề cương các văn kiện. Hội nghị Trung
ương 11 (tháng 10/2019) cho ý kiến vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII
của Đảng. Sau Hội nghị Trung ương 11, Bộ Chính trị đã chỉ đạo các Tiểu ban khẩn
trương, nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn chỉnh dự thảo
các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng gửi đại hội đảng bộ cấp cơ sở (Bản tóm
tắt) vào tháng 02/2020 và gửi đại hội cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương (Bản
toàn văn) vào tháng 4/2020 để góp ý kiến theo kế hoạch.
Như các kỳ đại hội trước, dự thảo các văn kiện
được sử dụng tại đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương (Bản toàn
văn) sẽ được công bố, gửi xin ý kiến các đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân vào khoảng giữa tháng 10/2020. Sau
đó, các Tiểu ban mới tổng hợp và tiếp thu ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp,
của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của
nhân dân để hoàn thiện, trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương xem xét
hoàn chỉnh trình Đại hội XIII của Đảng.
Tuy nhiên, bước sang năm 2020, đại dịch Covid
-19, khủng hoảng kinh tế và suy thoái kinh tế toàn cầu đã bất ngờ xảy ra, diễn
biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường đã tác động mạnh đến nước ta, gây ra
nhiều tổn thất về kinh tế - xã hội, đòi hỏi dự thảo các văn kiện phải cập nhật,
phân tích đánh giá lại tình hình, điều chỉnh bổ sung một số chỉ tiêu, nhiệm vụ
và giải pháp cho phù hợp với thực tế. Bộ Chính trị đã chỉ đạo các Tiểu ban khẩn
trương nghiên cứu cập nhật tình hình và tiếp thu các ý kiến, đóng góp xác đáng,
bước đầu thu nhận được từ đại hội đảng bộ cấp cơ sở và trên cơ sở, một số tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên để tiếp tục hoàn thiện thêm một bước dự thảo các
văn kiện trình Hội nghị Trung ương 13 xem xét, cho ý kiến chỉ đạo.
Sau Hội nghị Trung ương 13, Bộ Chính trị chỉ
đạo các Tiểu ban khẩn trương tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn
thiện dự thảo các văn kiện, đăng công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng xin ý kiến các đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị
- xã hội và nhân dân. Đây là một trong những điểm mới trong quá trình chuẩn bị
dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng so với các đại hội trước. Điều
này đã nói lên Đảng ta không hề bảo thủ.
DỰ
THẢO CÁC VĂN KIỆN CÓ RẤT NHIỀU ĐIỂM MỚI NỔI BẬT
Một
là, mới trong việc xác định chủ đề Đại hội XIII
Các
thành tố trong chủ đề Đại hội XIII có một số điểm mới, đáng chú ý là: (1) Bổ
sung xây dựng hệ thống chính trị vào nội dung xây dựng Đảng thành “tăng cường
xây dựng chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh”; (2) nêu
khát vọng phát triển đất nước; (3) xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI nước
ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai
là, mới trong dự báo tình hình thế giới và khu vực
Về
dự báo tình hình thế giới,
so với Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính trị nêu những dự báo mới: Hòa bình,
hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại,
khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục
diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn, làm gia tăng rủi ro đối
với môi trường chính trị, an ninh quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Luật pháp quốc tế và
các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu
hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu
tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy trong quan hệ quốc
tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức mới.
Kinh
tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài
do tác động của đại dịch Covid-19. Các quốc gia, nhất là các nước lớn điều
chỉnh lại chiến lược phát triển, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, làm thay
đổi các chuỗi cung ứng. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành
thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các
nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn
cầu.
Cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo
đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc
gia, dân tộc.
Về
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, Dự thảo Báo cáo chính
trị có những dự báo mới: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo
diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an
ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn,
tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình,
ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.
Dự
thảo Báo cáo chính trị có những dự báo mới về tình hình trong nước: Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh
tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, đất
nước ta chưa bao giờ có tiềm lực, cơ đồ, vị thế và uy tín như ngày nay, tạo ra
những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm
năm tới, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng hơn sẽ phải thực hiện đầy đủ, hiệu
quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nền
kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh
tế toàn cầu gây ra. Xu hướng già hóa dân số nhanh; tốc độ công nghiệp hóa, đô
thị hóa tăng mạnh; biến đổi khí hậu gay gắt, phức tạp... ngày càng tác động
mạnh đến sự phát triển của đất nước.
Ba
là, mới trong việc nêu hệ quan điểm chỉ đạo
So
với các đại hội trước, Dự thảo Báo cáo chính trị nêu hệ quan điểm chỉ đạo. Đây
là một trong những điểm mới nổi bật. Dự thảo Báo cáo chính trị viết: Tiếp tục
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong giai đoạn tới đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực tiễn các
quan điểm cơ bản sau:
Quan
điểm 1 nêu tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
trong giai đoạn tới:
Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Quan
điểm 2 nêu tư tưởng chủ đạo về chiến lược tổng thể phát triển đất nước: Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc
gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn
kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế -
xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Quan
điểm 3 nêu định hướng tạo động lực phát triển:
Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và
của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng
dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất
nước.
Quan
điểm 4 nêu định hướng huy động, phát huy mọi nguồn lực: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong
đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Quan
điểm 5 nêu định hướng xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng. phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Bốn
là, mới trong cách tiếp cận xác định mục tiêu
Mục
tiêu tổng quát: Nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố niềm tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; phát huy sức sáng
tạo, ý chí và khát vọng phát triển đất nước, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chú trọng
đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấu đấu để đến giữa thế kỷ XXI,
nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục
tiêu cụ thể xác định rõ: Đến năm
2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt
qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành
lập Đảng là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung
bình cao; Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước trở
thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việc
xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: trình độ phát triển, trình
độ công nghiệp và thu nhập phù hợp với cách tiếp cận của thế giới.
Năm
là, mới trong xác định nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược
Về
những nhiệm vụ trọng tâm
Đại
hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội
XIII cũng nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm. So với Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính
trị có 2 điểm mới: (1) Về cơ cấu: Đại hội XII dành nhiệm vụ 1 và 2 về xây dựng
Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ; Dự thảo trình Đại hội XIII dành
nhiệm vụ thứ nhất về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, thêm
nhiệm vụ về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu; (2) Nội dung từng nhiệm
vụ trọng tâm có những nội dung mới. Cụ thể như sau:
(1) Về
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung yêu
cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lòng tin, sự gắn bó của
nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Về
phát triển kinh tế, Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh xây
dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường
đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các
khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất và công nghệ,
đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và
bền vững.
(3) Về
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Dự thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh:
Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, kiên quyết,
kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
(4) Về
văn hóa, xã hội, Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh: Khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá
trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân.
(5) Về
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc, Dự thảo Báo cáo chính
trị bổ sung và nhấn mạnh: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân
dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự
gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa cấp
ủy, tổ chức đảng, chính quyền Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội
các cấp, của cán bộ, đảng viên.
(6) Về
tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, Dự thảo Báo cáo chính trị
nêu: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ,
cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với
biến đổi khí hậu.
Về
các đột phá chiến lược: Ba
đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác định có ý nghĩa, giá
trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá trị và sẽ được cụ thể hóa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển.
So
với Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh những nội dung
sau:
Về
thể chế, Dự thảo Báo cáo chính trị
mở rộng phạm vi thành thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện
đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, lành mạnh,
công khai, minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật; huy động, quản lý
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài
chính; thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường
kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Về
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Dự thảo Báo cáo chính trị bổ sung ưu tiên phát
triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt
trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo
dục, đào tạo; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học
- công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về
hệ thống kết cấu hạ tầng, Dự
thảo Báo cáo chính trị nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội theo hai hướng ưu tiên: Một là,
đẩy nhanh phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích
ứng với biến đổi khí hậu. Hai là, chú trọng phát triển hạ tầng
thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát
triển kinh tế số, xây dựng xã hội số.
Sự
cụ thể hóa ba đột phá chiến lược của Đại hội XI, XII vào giai đoạn 5 năm
2021-2025 là một điểm mới của Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII của
Đảng.
DỰ
THẢO BÁO CÁO CHÍNH TRỊ ĐÃ THỂ HIỆN RÕ NHỮNG GIÁ TRỊ CHUNG CỦA NHÂN LOẠI
Một
là, về kinh tế thị trường
Kinh
tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, được phát triển trong chủ nghĩa
tư bản. Từ Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Kế thừa Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính trị nêu: Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển.
Điểm
mới của Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII nêu rõ vị trí, vai trò của
các thành phần kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của
cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo
cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa
bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị
hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh
tế tập thể, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các
thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều
kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát
triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp
hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ
trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh
tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia
rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có
vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý
hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Dự
thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII xác định mối quan hệ giữa Nhà nước,
thị trường và xã hội: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và
hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế
vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai,
minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động;
điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế
với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù
hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò
quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân
bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của
doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai
trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa
các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với
các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh
nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản
biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
Hai
là, về nhà nước pháp quyền
Từ
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, Đảng ta đã chính thức sử dụng khái niệm Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nhĩa và được tiếp tục được phát triển qua các kỳ đại
hội. So với Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính trị xác định rõ hơn nhiệm vụ,
giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác
định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước.
Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, hiện đại, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp
làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững.
Ba
là, về dân chủ
Dân
chủ là giá trị chung của nhân loại. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta nhận thức
ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn bản chất, vị trí, vai trò của dân chủ và phát
huy dân chủ. So với Đại hội XII, Dự thảo Báo cáo chính trị xác định rõ hơn
nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ:Tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện thể chế
thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu
quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện
tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực
hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban
hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp
lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ
thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong
toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị
- xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức;
động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây
dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá
nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc
vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn
là, về hạnh phúc
Sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Quốc
hiệu của nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cao giá trị hạnh phúc. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội XIII đề cao khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đem lại
hạnh phúc cho nhân dân. Thế giới hiện nay rất coi trọng chỉ số hạnh phúc của
người dân để đánh giá về sự tiến bộ, ưu việt của các quốc gia. Đây cũng là một
điểm nhấn trong Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII./.