PGS.TS
Phạm Văn Linh,
Phó Chủ tịch Hội đồng
Lý luận Trung ương
1.
Tính nhất quán trong ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo
Một là, kế
thừa các văn kiện quan trọng của Đảng trong các giai đoạn trước đây, Cương lĩnh
(bổ sung và phát triển năm 2011) đã đưa ra những quan điểm, định hướng lớn về
phát triển giáo dục và đào tạo, chỉ rõ: “ Phát triển giáo dục và đào
tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội”[1].
Các quan điểm trên không chỉ thể hiện sự phát triển về tư duy, nhận thức, kế
thừa chủ trương nhất quán của Đảng ta qua các giai đoạn lịch sử, coi trọng sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, vừa là vấn đề mang tính chiến lược xuyên suốt, bám
sát xu thế phát triển của nhân loại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, luôn đặt
ra yêu cầu phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo.
Hai
là, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2010-2020 xác định: ”
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”[2].
Các văn kiện quan trọng khác của Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ đại hội XI, XII
tiếp tục cụ thể hóa chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo. Hội nghị TW 6, khóa
XI khẳng định:“ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một yêu
cầu khách quan và cấp bách”, đòi hỏi phải: đổi mới tư duy, đổi mới mục tiêu
đào tạo; hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp
dậy và học; cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; cơ sở
vật chất, nguồn lực, điều kiện đảm bảo.., trong toàn hệ thống, tiếp tục cần
được cụ thể hóa trong từng giai đoạn.
Ba là, thành tựu sau 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, giáo dục và đào tạo
nước ta đã có những chuyển biến tích cực. Chất lượng từng bước được nâng lên,
hệ thống giáo dục quốc dân tiếp tục được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở giáo dục,
đào tạo tiếp tục được mở rộng ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học. Vai
trò, vị trí các cơ sở giáo dục, nhất là giáo dục đại học trong hệ thống dần
được khẳng định, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm được đề cao; chất lượng đào
tạo từng bước được cải thiện, hệ thống chương trình đã được đổi mới, chú trọng
phát triển các phẩm chất, năng lực cho học sinh; phương pháp giảng dậy theo
hướng tích cực cũng được chú trọng. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên được đẩy mạnh… Chủ động
phát huy mặt tích cực, hạn chế các khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo
định hướng XHCN trong giáo dục và đào tạo. Hợp tác quốc tế được tăng cường theo
hướng chủ động, tích cực đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành giáo dục,
cũng như yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế của đất nước.
Nhờ những kết quả trên, quy mô nguồn nhân lực được mở rộng, lực lượng lao động
tăng từ 50,4 triệu người năm 2010 lên khoảng 54,6 triệu người năm 2020 với cơ
cấu hợp lý hơn, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể, phù hợp với
nhu cầu thị trường. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 64% năm
2020.Trong đó, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6%
năm 2010 lên 24,5% vào năm 2020[3].
Bốn
là, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong
phát triển giáo dục và đào tạo, như nhận thức về triết lý giáo dục Việt Nam
trong thời kỳ mới, vai trò và sứ mạng của giáo dục chưa đủ sâu sắc, chưa làm rõ
được tính ưu việt của nền giáo dục cách mạng, theo định hướng XHCN. Việc đổi
mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương tiện, công cụ hiện đại, đặc biệt là
công nghệ thông tin chưa thực sự hiệu quả; vấn đề rèn luyện kỹ năng sống, kỹ
năng học tập, kỹ năng giải quyết vấn đề ở một số nhà trường vẫn chưa thật sự
được chú trọng. Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dậy ở
nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa được hiện đại hóa tương xứng, còn năng về lý
thuyết, nhẹ thực hành, chưa thực sự chú ý kỹ năng mềm cho người học. Đầu tư cho
giáo dục chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Công tác quản lý cơ sở giáo dục nước
ngoài, cơ sở liên kết giáo dục còn gặp nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước…
Năm
là, những kết quả và hạn chế trong giáo dục và đào tạo của nhiệm kỳ
Đại hội XII đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chủ trương về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của
Đảng. Một số kết quả chính như: mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục
được mở rộng về quy mô. Việt Nam là quốc gia luôn ưu tiên đầu tư cho giáo dục,
5 năm 2016-2021, ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực này đạt khoảng 20% tổng
chi ngân sách. Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới được ban
hành và đang tích cực triển khai; phương pháp giảng dạy và học tập có bước đổi
mới. Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo dục phổ thông
có chuyển biến tốt, được thế giới công nhận. Công tác thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả thực chất, hiệu quả hơn. Quản lý, quản trị đại học có bước đổi mới,
chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên. Giáo dục nghề nghiệp có
nhiều chuyển biến. Cơ chế, chính sách tài chính cho giáo dục và đào tạo từng
bước đổi mới. Cơ chế tự chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong giáo dục và đào
tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước đầu. Hợp tác quốc tế về giáo dục và
đào tạo tiếp tục được mở rộng. Trong thời gian dịch bệnh Covid-19, ngành giáo
dục và đào tạo đã tiếp cận dậy và học qua internet, truyền hình với nhiều hình
thức khác nhau.
Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần sớm khắc phục như: đổi mới tư
duy, hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra; một số
nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Chất lượng, hiệu
quả giáo dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đảm bảo
tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức đào tạo; nội
dung, chương trình vẫn còn nặng lý thuyết, nhẹ về thực hành. Đào tạo vẫn thiếu
gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường
lao động. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người
học. Giáo dục “ làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ. Đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về
số lượng và chất lượng. Quản lý nhà nước, quản lý- quản trị nhà trường còn
nhiều hạn chế…
2.
Nội dung cơ bản của những điểm mới
Thứ nhất, về đề mục, các văn kiện lần này, như trong Báo
cáo Chính trị tập trung đề cập đến giáo dục và đào tạo ở mục V, so với
Đại hội XII, tên đề mục đã thay cụm từ “phát triển” bằng cụm từ “nâng cao” chất
lượng nguồn nhân lực và thêm cụm từ “phát
triển con người”. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2021-2030, vấn đề này được đề cập ở tiểu mục 3,
phần V, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội, với tiêu đề: phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và hội nhập quốc tế. Điểm mới lần này, trực tiếp đề cập đến giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, trước đây chỉ nhấn mạnh “phát
triển nhanh giáo dục và đào tạo”.
Thứ
hai, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và
đào tạo, yêu cầu phải “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực
hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước”[4].
Trước đây chỉ đề cập phương hướng chung: “giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Văn kiện lần này yêu cầu xác định rõ mục tiêu của giáo dục và đào tạo
trong giai đoạn tới, nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
sức khoẻ, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia
đình, xã hội và Tổ quốc và “Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng
tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn
dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[5].
Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất,
nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Thứ
ba, nhấn mạnh, giáo dục và đào tạo thích ứng với Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, do vậy phải đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà
khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực
quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý
xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Trước đây chỉ đề cập:“ chú
trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển
kinh tế tri thức”, điểm mới lần này nhấn mạnh đổi mới chế độ tuyển dụng, sử
dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút
nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đổi mới và nâng cao chất
lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt; bảo đảm thống nhất với chủ
trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập trung nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông thôn;
giảm tỉ lệ lao động khu vực phi chính thức. Hình thành đội ngũ lao động lành
nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào
tạo và sử dụng lao động.
Thứ tư, cụ thể hóa yêu cầu hoàn thiện hệ thống giáo
dục quốc dân, sắp xếp lại hệ thống trường học, phát triển hài hoà giữa giáo
dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt
khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính
sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Đặc biệt chú trọng giáo dục mầm non,
tiểu học trong điều kiện mới, tạo tiền đề và bảo đảm điều kiện thuận lợi, để
mỗi người dân đều được thụ hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục.
Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Củng cố và nâng cao chất
lượng phổ cập giáo dục.
Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo
bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới. Có chính sách đột phá phát
triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. “Có cơ chế hỗ trợ xây dựng
một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành những trung tâm đào tạo
có uy tín trong khu vực và thế giới”.[6]Thúc
đẩy phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các cơ
chế, chính sách và giải pháp để đào tạo lại lực lượng lao động phải chuyển đổi nghề
nghiệp do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và tác động
của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển giáo dục và
đào tạo, như: thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc.
Đưa vào chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối
thiểu, chú trọng xây dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh
phổ thông. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy,
học và sử dụng tiếng Anh. Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng
nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng đặc biệt khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và
chế độ thi cử ở các cấp học.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang
tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet,
truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học; giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. ”Đào tạo
con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công
dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin,
công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế”[7].
Thứ sáu, xây
dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, “Lấy chất lượng và hiệu quả đầu
ra làm thước đo. Xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới
miễn học phí đối với học sinh phổ thông, trước hết là đối với học sinh tiểu học
và trung học cơ sở”[8]. Đồng
thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập
phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện của Việt Nam trên cơ sở bảo đảm
công bằng xã hội và các giá trị cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhấn
mạnh hơn yêu cầu thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội trong giáo dục và
đào tạo. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô
thị lớn, các nơi có điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục
sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất cả học sinh được đến trường.
Thứ bảy, tiếp
tục hoàn thiện các khâu, các yếu tố của quá trình đào tạo theo hướng chuẩn hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh đổi mới đồng bộ, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý và quản trị nghiệp vụ chuyên môn trong giáo
dục và đào tạo, từng bước thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ gắn với trách nhiệm
giải trình của các cơ sở giáo dục và đào tạo. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các tiêu
cực trong giáo dục và đào tạo. Hoàn thiện và thực hiện ổn định các phương thức
đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo, thi tốt nghiệp trung học
phổ thông và tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và đào tạo nghề. Xây
dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo
dục và đào tạo.
Thứ tám, đặt
ra mục tiêu Việt Nam tham gia thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, vì vậy yêu
cầu hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả
nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục và đào
tạo. ‘Gắn kết chặt chẽ giáo dục và đào tạo với nghiên cứu, triển khai,
ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới; hình thành các trung tâm
nghiên cứu xuất sắc, các nhóm đổi mới sáng tạo mạnh“[9].
Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Cùng với đề cao vị trí,
vai trò và trách nhiệm xã hội, cần đổi mới mạnh mẽ chính sách đãi ngộ, chăm lo
xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt, sắp
xếp, đổi mới căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo sư phạm, thực hiện đồng bộ các
cơ chế, chính sách và giải pháp để cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
3.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Có thể khẳng định, những điểm mới trong các văn kiện lần này có ý nghĩa hết sức
quan trọng, thể hiện vai trò to lớn trong định hướng phát triển đất nước, ở
thời điểm chuẩn bị kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam trở thành nước đang
phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Để đạt được mục
tiêu đó, vai trò của giáo dục và đào tạo có vị trí then chốt, vì thế những điểm
mới về các vấn đề này trong các văn kiện Đại hội XIII có nhiều ý nghĩa sâu sắc:
- Khẳng định tính kế thừa, sự nhất quán trong quan điểm của Đảng ta coi giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững,
thực hiện khát vọng phát triển đất nước trong thời gian tới.
- Thể hiện sự nhanh nhạy của Đảng, Nhà nước Việt Nam, thích ứng với xu thế thời
đại, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, thành tựu của giáo dục và đào tạo
trên thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Tiếp tục làm sáng tỏ hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có lộ
trình và bước đi phù hợp, lấy con người là trung tâm, trên nền tảng của sự phát
triển giáo dục và đào tạo./.