TS. NGUYỄN NGỌC ÁNH
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Xây dựng
tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng các
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn là nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng ta tại các kỳ Đại hội Đảng. Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu,
biện pháp để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này.
Trong
Bài nói ở Lớp huấn luyện đảng viên mới do Thành ủy Hà Nội tổ chức ngày
14-5-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ
tốt là do các đảng viên đều tốt”(1). Theo đó, đảng viên là nhân tố cơ bản nhất,
năng động nhất của tổ chức đảng và tổ chức cơ sở đảng với các chi bộ là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là “sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với
quần chúng”(2). Vì thế, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, có
năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh toàn
diện, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng; các nhiệm vụ chính trị và
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng đã đưa ra phương hướng: “Nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên;
phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học
dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”(3).
Theo
tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, cần tập trung
thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp cơ bản sau:
Một
là, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị.
Thời
gian qua, cùng với việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, việc sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng
cũng đã được triển khai quyết liệt và đạt được những kết quả, chuyển biến tích
cực. “Số lượng tổ chức cơ sở đảng giảm do được kiện toàn phù hợp với việc sắp
xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, góp phần giảm chi ngân
sách nhà nước”(4). Tính đến ngày 30-9-2020, toàn Đảng có 52.125 tổ chức cơ sở đảng
(24.788 đảng bộ cơ sở, 27.337 chi bộ cơ sở), giảm 4.951 tổ chức cơ sở đảng so với
đầu nhiệm kỳ; trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.487 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi
bộ với 5.192.533 đảng viên, tăng 568.638 đảng viên so với đầu nhiệm kỳ(5). Tuy
nhiên, một số nơi còn lúng túng, thiếu kiên quyết trong việc kiện toàn, đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động tổ chức cơ sở đảng, dẫn đến hoạt động còn chưa
đồng bộ, thông suốt và chưa đạt mục tiêu đề ra. Thêm vào đó, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Bởi vậy, cần phải rà soát, kiện toàn, sửa đổi, bổ sung chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình
tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ
chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Cần tiếp tục nghiên cứu và quy định
thống nhất cách tổ chức tổ chức cơ sở đảng phù hợp với những loại hình đơn vị đặc
thù, như trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước…; khắc phục tình trạng “cơ sở
trong cơ sở”. Đây là một nội dung hết sức quan trọng, nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn của công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Hai
là, nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở các
loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở xã, phường, thị trấn; thực hiện nghiêm
quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở.
Tổ chức
cơ sở đảng dù được thành lập ở loại hình đơn vị cơ sở nào, thì đều có vai trò
là hạt nhân chính trị, là “sợi dây liên hệ giữa Đảng với quần chúng”. Tổ chức
cơ sở đảng trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; bảo đảm đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống và được thực hiện có hiệu quả. Hiện
nay, hầu hết các tổ chức cơ sở đảng đã xây dựng quy chế, chương trình làm việc
của cấp ủy; tuy nhiên, một số cấp ủy không triển khai thực hiện nghiêm túc
trong thực tiễn; thay vào đó là sự chỉ đạo theo thói quen và làm việc theo kinh
nghiệm, dẫn đến có những vi phạm đáng tiếc đã xảy ra. Vì vậy, các tổ chức cơ sở
đảng cần rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế, chương
trình làm việc của cấp ủy.
Đại hội
XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức
cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát
hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ
sở”(6). Do vậy, xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải hướng vào nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở xã, phường, thị trấn. Việc
tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng phải gắn với thực hiện đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động
theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục
tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục,
tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt
động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
trên mọi lĩnh vực để xây dựng và phát triển đất nước nhanh và bền vững. Muốn vậy,
cấp ủy các cấp trước hết cần đổi mới cách ra nghị quyết theo hướng ngắn gọn, rõ
ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ triển khai thành chương trình hành động cụ thể.
Khắc phục hiện tượng “khê đọng”, hoặc “bội thực” nghị quyết; không quán triệt,
vận dụng sáng tạo, mà chỉ “mô phỏng” nghị quyết của cấp ủy cấp trên. Tăng cường
công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy cấp dưới, nhất là kiểm tra
việc thực hiện quy chế, chương trình làm việc để kịp thời phát hiện, uốn nắn những
lỏng lẻo trong thực hiện những văn bản này. Đồng thời, các cấp ủy cần chỉ đạo
xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể để tập trung xây dựng
tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố các tổ chức yếu kém.
Ba là,
nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng
cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy.
Cấp ủy
các cấp cần chú ý lựa chọn những đảng viên có tâm huyết, tinh thần trách nhiệm
cao, biết tập hợp quần chúng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để
lãnh đạo toàn diện công tác của tổ chức cơ sở đảng. Đội ngũ này cần có đạo đức
trong sáng, lối sống lành mạnh; có khả năng đoàn kết đảng viên, quần chúng xung
quanh cấp ủy. Sau đại hội, cần thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhật
kiến thức cho các cấp ủy viên, trước hết là bí thư, phó bí thư cấp ủy của tổ chức
cơ sở đảng; tạo điều kiện để đội ngũ này được thường xuyên học tập, nghiên cứu,
có nhận thức đúng đắn, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng, các nghị quyết
của đảng ủy cấp trên, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; và nắm vững nguyên tắc, thủ
tục sinh hoạt đảng, nhất là các nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình.
Bên cạnh
đó, yêu cầu đặt ra là cần phải nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết
cho đội ngũ cấp ủy viên; muốn vậy, tổ chức cơ sở đảng cần phân công rõ nhiệm vụ,
trách nhiệm của từng cấp ủy viên, nhất là trách nhiệm của bí thư và phó bí thư
cấp ủy. Cần coi trọng giải quyết các mối quan hệ trong công tác, nhất là mối
quan hệ giữa bí thư cấp ủy với người đứng đầu cơ quan, đơn vị; giữa bí thư cấp ủy
với đảng ủy, bảo đảm đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Tránh các biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, lạm quyền, hay không
giải quyết tốt các mối quan hệ trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn
là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng của cơ quan, đơn
vị; cơ bản thực hiện mô hình “bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân
dân”; “bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân” ở những nơi đủ điều
kiện; chủ trương bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc
trưởng ban công tác mặt trận.
Một
trong những vấn đề mấu chốt cần giải quyết hiện nay là phải đào tạo, xây dựng
được đội ngũ cán bộ kiêm nhiệm nói trên, vừa có kiến thức, kỹ năng lãnh đạo cơ
quan đảng, vừa có năng lực điều hành cơ quan nhà nước. Cán bộ được chọn phải có
lập trường tư tưởng vững vàng, trong sáng, gương mẫu; được đào tạo bài bản, có
các kỹ năng về tiếp dân, tuyên truyền, xử lý các tình huống. Đồng thời, những địa
phương, cơ quan, đơn vị tiến hành chủ trương, mô hình nói trên phải có sự đoàn
kết thống nhất, có tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
Từ
kinh nghiệm thành công thời gian qua trong thực hiện chủ trương bí thư chi bộ đồng
thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận của một
số địa phương, đặc biệt là ở tỉnh Quảng Ninh, có thể nghiên cứu để triển khai
nhân rộng cách làm của các địa phương này, đó là: Thay đổi quy trình tiến hành,
nếu trước đây là “Đảng cử - dân bầu” thì nay thành “dân bầu - Đảng cử”. Theo
quy trình này, cấp ủy giới thiệu đảng viên cho nhân dân bầu ra trưởng thôn trước.
Sau đó, căn cứ vào kết quả bầu của nhân dân, cấp ủy sẽ chỉ định đồng chí trưởng
thôn (vừa được nhân dân bầu) làm bí thư chi bộ. Thực tế cho thấy, nếu cách làm
này được nhân rộng, sẽ khắc phục được tình trạng “Tỷ lệ trưởng thôn, tổ trưởng
tổ dân phố chưa là đảng viên còn cao… Tính đến ngày 30-9-2020, tỷ lệ trưởng
thôn, tổ trưởng tổ dân phố chưa là đảng viên là 19,83%”(7), như Đại hội XIII của
Đảng đã chỉ ra.
Năm
là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
Thực
tiễn những năm qua cho thấy, chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ nhiều
nơi vẫn còn hạn chế. Nội dung sinh hoạt chi bộ ở một số nơi còn cứng nhắc,
nghèo nàn, đơn điệu, thiếu những buổi sinh hoạt chuyên đề nên trí tuệ tập thể của
đảng viên chưa được phát huy, nhất là với đảng viên trẻ, đảng viên vùng dân tộc
thiểu số, tôn giáo. Tính chiến đấu trong đấu tranh, tự phê bình và phê bình còn
hạn chế, làm cho tính tiền phong, gương mẫu của một số đảng viên có lúc bị mờ
nhạt. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn
còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được coi trọng, tính chiến đấu trong tự
phê bình và phê bình còn yếu”(8). Thực trạng đó dẫn đến thiếu vắng những nhân tố
tích cực trong việc đóng góp trí tuệ để xây dựng nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng
thực sự “đúng ý Đảng, hợp lòng dân”.
Để khắc
phục tình trạng trên, cần nâng cao hơn nữa chất lượng sinh hoạt chi bộ, giữ vững
nền nếp sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ định kỳ theo quy định. Tiếp tục nghiên cứu
đổi mới nội dung, phương thức và hình thức sinh hoạt chi bộ bảo đảm thiết thực,
phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cụ thể của từng loại hình chi bộ; thực hiện tốt
quy định về sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề. “Nâng cao chất lượng kết nạp đảng
viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên ưu tú,
trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát
triển đảng viên là công nhân, trí thức, doanh nhân để tạo nguồn cán bộ cho hệ
thống chính trị”(9); khắc phục tình trạng chạy theo thành tích, số lượng, hạ thấp
tiêu chuẩn. Bên cạnh đó, cấp ủy cấp trên cần phân công cấp ủy viên và cán bộ
các ban xây dựng Đảng thường xuyên về dự sinh hoạt với các chi bộ, nhất là chi
bộ thôn, buôn, khu phố để theo dõi, uốn nắn, giúp đỡ khắc phục những khó khăn,
hạn chế; kịp thời lãnh đạo, định hướng hoạt động, giải quyết hoặc kiến nghị giải
quyết những vấn đề mới nảy sinh ở cơ sở, giúp cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sáu
là, tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm
quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng.
Vừa
qua, công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật của Đảng có lúc, có
nơi chưa thường xuyên, thiếu quyết liệt; việc đấu tranh tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng còn yếu, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn phổ
biến. Thậm chí, nhiều cấp ủy còn buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, dẫn đến
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát thấp. Tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” trong
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng còn khá phổ biến.
Do đó,
thời gian tới cần tập trung vào kiểm tra việc triển khai, thực hiện các nghị
quyết của Đảng trong các tổ chức cơ sở đảng và mọi cán bộ, đảng viên. Kiểm tra
để bổ sung, hoàn thiện quy định chức năng, nhiệm vụ và quy chế hoạt động cụ thể
của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với tình hình mới, với nhiệm
vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, địa phương theo đúng Điều lệ Đảng, đúng pháp
luật. Thực hiện việc kiểm tra về phẩm chất đạo đức, lối sống, những dấu hiệu vi
phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Qua kiểm
tra, cần xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm, làm cho tổ chức cơ sở
đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Công tác kiểm tra phải chủ động, kịp thời,
chặt chẽ, nghiêm túc, đúng nguyên tắc, thủ tục theo hướng dẫn của Ủy ban Kiểm
tra Trung ương và phải có tác dụng giáo dục sâu sắc, hiệu quả thiết thực. Việc
đánh giá, kết luận trong kiểm tra phải đúng mức, công tâm. Quá trình kiểm tra
phải kết hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của chính quyền, phát huy vai trò
giám sát của quần chúng, bảo đảm tính chuẩn xác, khách quan. Qua kiểm tra, tự
phê bình và phê bình, cấp có trách nhiệm cần kịp thời biểu dương, động viên,
khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích tốt; kỷ luật nghiêm minh những
đảng viên, tổ chức vi phạm; ấn định thời gian phấn đấu cho những đảng viên có
khuyết điểm, sai lầm và tạo điều kiện để họ sửa chữa, khắc phục.
Bảy
là, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; thường xuyên rà
soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Công
tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa chặt chẽ và thiếu
sự quan tâm thường xuyên, đúng mức; việc đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ
với cấp ủy, chi bộ nơi cư trú ở nhiều nơi còn biểu hiện hình thức. Văn kiện Đại
hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc rà soát, sàng lọc đảng viên chưa thường
xuyên, thiếu cương quyết. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một
bộ phận đảng viên giảm sút; số đảng viên bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu
hướng tăng”(10).
Để khắc
phục tình trạng nêu trên, cần chú trọng thực hiện tốt công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống cho cán bộ, đảng
viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, thật
sự tiền phong, gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, có trí tuệ, phẩm
chất đạo đức cách mạng, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và có
năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Quy định số 08-QĐi/TW, của Ban Chấp
hành Trung ương, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Các cấp
ủy phải chủ động trong công tác chính trị, tư tưởng, trang bị kịp thời những
thông tin định hướng cho cán bộ, đảng viên, nhất là trước tác động của những
thông tin phức tạp, nhạy cảm, khiến dư luận quan tâm; quán triệt và cụ thể hóa
thực hiện các chủ trương của Trung ương bảo đảm nghiêm túc, phù hợp với tình
hình thực tiễn địa phương, cơ quan, đơn vị; đồng thời, thường xuyên rà soát,
sàng lọc, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tư cách./.
---------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 113
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t. 8, tr. 288
(3), (4),(5),(6),(7),(8),(9) Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. II, tr. 229, 185, 185, 189, 190, 191, 241-242
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 190
(Số đảng viên bỏ sinh hoạt đảng
phải xóa tên trong 5 năm 2016, 2017, 2018, 2019 và 2020 lần lượt là: 2.414,
3.084, 3.521, 4.095 và 4.428)