GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG*

I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC

Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố có tính quyết định đối với sự thành - bại của cách mạng. Do vậy, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xét cho cùng, phải bắt đầu từ bản thân Đảng. Đó chính là lý do tại sao, bên cạnh việc xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng ta khẳng định rằng, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều đó chứng tỏ Đảng tuân thủ những quan điểm chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản; Đảng tích cực triển khai Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Mở đầu thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã nêu bốn nội dung Đảng cần đổi mới: "Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác"1. Vấn đề "đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác" đến Đại hội VII đã được điều chỉnh lại thành "đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác". Bốn vấn đề trên đây tuy sau này được bổ sung khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhưng nhìn chung đã nói lên bản thân Đảng ta - với tư cách là đảng cầm quyền - phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn về nhiều mặt.

Đảng ta cũng xác định rằng, tự đổi mới Đảng phải gắn liền với tự chỉnh đốn Đảng. Đại hội VII của Đảng chính thức đặt ra vấn đề đổi mới Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng, thể hiện rõ nhất là ở Cương lĩnh, trong đó chỉ rõ: "Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo"2. Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn không phải chỉ tiến hành một lần, trong một thời gian ngắn là đủ. Ngay khi bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ: "Đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách, đồng thời là việc thường xuyên, lâu dài"3. Chính vì vậy, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn... đây là một quy luật phát triển của Đảng"4.

Vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất của Đảng là một nguyên tắc quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong các kỳ đại hội Đảng, vấn đề này được diễn đạt bằng một số khía cạnh khác nhau. Tại Đại hội X (2006), Đảng ta xác định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề bản chất của Đảng biểu hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau đây:

- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng được khẳng định là chủ nghĩa Mác - Lênin (đến Đại hội VII thêm “tư tưởng Hồ Chí Minh”). Điều này vừa thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam.

- Đảng xây dựng theo những nguyên tắc về đảng kiểu mới của V.I. Lênin, trong đó tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản.

- Mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa cộng sản.

Trong hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã luôn luôn kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hơn 20 năm qua gắn liền với việc Đảng ta đã kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều trái với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không đúng với thực tế những gì đã diễn ra trong hơn 20 năm qua.

Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc của đảng cầm quyền ở nước ta trong những năm đổi mới là Đảng lãnh đạo công tác cán bộ. Qua thực tiễn đổi mới công tác cán bộ, Đảng ta xác định rõ những quan điểm có tính chất định hướng. Đó là Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Để đánh giá đúng cán bộ, phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo. Để bố trí đúng cán bộ, phải lấy yêu cầu nhiệm vụ làm căn cứ. Lựa chọn cán bộ phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng. Bảo đảm tính tập thể trong các quyết định về cán bộ trên cơ sở dân chủ, xem xét đầy đủ ý kiến của các tổ chức và cá nhân có liên quan. Phải dân chủ hoá công tác cán bộ bằng những quy chế rõ ràng. Phân công, phân cấp quản lý cán bộ, xác định quyền hạn, trách nhiệm, các mối quan hệ giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước, ngành và địa phương, cấp trên và cấp dưới. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tuân theo quy trình chặt chẽ, kết hợp giữa bồi dưỡng lý luận, kiến thức và rèn luyện trong thực tiễn. Xác định quy chế, quy trình lựa chọn, đánh giá, đề bạt, điều động cán bộ, làm cho việc quản lý cán bộ đi vào nền nếp. Việc luân chuyển cán bộ theo quy hoạch góp phần đào tạo những cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn xa, hiểu biết rộng, có bản lĩnh và năng lực lãnh đạo. Coi trọng việc quản lý cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Coi trọng việc bồi dưỡng nhân tài cho Đảng. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ, kết hợp đúng cán bộ nhiều tuổi với cán bộ trẻ. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế tục là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng và phải được tiến hành theo quy hoạch, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển trong đội ngũ cán bộ.

Những quan điểm và nguyên tắc trên từng bước được bổ sung, phát triển trong những năm đổi mới vừa qua theo hướng ngày càng dân chủ hoá, khoa học hoá đối với công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.

II- NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 
TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG 
QUA NHỮNG NĂM  ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

1. Thời cơ, thách thức, nguy cơ liên quan đến xây dựng Đảng

 Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cho đến nay đã trải qua hơn 20 năm với năm kỳ đại hội toàn quốc. Trong những năm gần đây, chúng ta càng thấy rõ hơn một điều rằng: sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo đứng trước thời cơ, thách thức và nguy cơ lớn mà nếu Đảng ta biết nắm lấy thời cơ, vượt qua những thách thức, đề phòng và khắc phục được những nguy cơ, thì nước ta sẽ sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã nêu ra và đến năm 2020 nước ta về cơ bản sẽ trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Thời cơ là tình huống cụ thể xảy ra trong một thời gian nhất định, nó chứa đựng những thuận lợi để chúng ta thực hiện đạt được mục tiêu đã định một cách tốt nhất. Thời cơ có được do cả điều kiện khách quan và chủ quan tạo thành. Con người có thể tích cực, chủ động tạo cho thời cơ mau đến, và con người cũng có thể nắm bắt được thời cơ đến trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu không nắm được thì thời cơ sẽ qua đi, không trở lại.

Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới hiện nay đang đứng trước thời cơ lớn mà những biểu hiện chủ yếu của nó là:

Một là, đất nước đang chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong một xu thế toàn cầu hoá. Chắc chắn rằng, với việc tham gia ngày càng nhiều và tích cực vào các tổ chức quốc tế, Việt Nam có nhiều cơ hội để bứt lên, thu hẹp dần khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

Hai là, do nhiều nguyên nhân, đất nước ta đang tiếp tục ổn định về nhiều mặt, trong đó có sự ổn định về chính trị, mặc dù có bị ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế thế giới. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết, rất quý báu, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài để đất nước đi lên nhanh hơn, vững chắc hơn.

Ba là, hơn bao giờ hết, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến nhằm đưa đất nước tiến nhanh và bền vững, sánh vai với các cường quốc năm châu. Chưa bao giờ ý chí vươn lên thoát khỏi tình trạng kém phát triển lại mạnh như bây giờ trong con người Việt Nam.

Bốn là, tình hình quốc tế, bên cạnh những khó khăn, nhất là khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế chưa khắc phục được, nhưng nhìn tổng quát, ở hiện tại và trong tương lai gần, có những thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Đó là xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển. Đó là sự phát triển nhanh hơn rất nhiều của khoa học và công nghệ so với tất cả các thời kỳ cách mạng khoa học - kỹ thuật trước đây, mà Việt Nam là nước đi sau có thể có lợi thế rút ngắn các bước phát triển.

Tháng 1-1994, Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng ta đã chỉ ra bốn thách thức và đồng thời cũng là bốn nguy cơ lớn trong quá trình phát triển của những năm sau đó ở nước ta: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch”5. Việc chỉ ra bốn nguy cơ như vậy là rất chính xác. Đến các đại hội sau đó, Đảng ta đều khẳng định lại sự nhận định đúng đắn của Hội nghị này.

Nhìn về các mối tương tác mà xét thì trong bốn nguy cơ đó, có một nguy cơ thuộc về bên ngoài và có ba nguy cơ thuộc về bên trong, tức là do những yếu tố chủ quanNguy cơ từ bên ngoài là nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Các thế lực này vốn dĩ từ trước đến nay luôn luôn tìm mọi cách chống phá Đảng ta và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nay càng chú tâm lợi dụng những khó khăn, kể cả những yếu kém mà Đảng ta gặp phải, để đưa ra những biện pháp vừa tinh vi vừa trắng trợn làm suy yếu và tiêu diệt Đảng ta. Có ba nguy cơ xuất phát từ bên trong đã được Đảng ta nêu trong Cương lĩnh năm 1991: “Phải phòng và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự suy thoái, biến chất của cán bộ, đảng viên”6.

Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII tháng 2-1999 ra Nghị quyết số 10-NQ/TW Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay đã nhận định rằng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống tạo ra nạn tham nhũng, tệ quan liêu. Trong các mối quan hệ đan xen của các nguy cơ thì yếu tố bên trong, phía chủ quan, có tính chất quyết định. Nếu phía bên trong - tức là bản thân Đảng ta - mạnh thì phía bên ngoài, sự chống phá của các thế lực thù địch, không thể nào làm cho Đảng ta suy yếu và tan rã. Ngược lại, nếu bên trong yếu kém, thì, chẳng hạn, “diễn biến hoà bình” vốn là từ phía các thế lực thù địch gây ra, lại xâm nhập vào cơ thể Đảng và rất dễ biến thành nguy cơ “tự diễn biến hoà bình”.

Thời cơ, thách thức, nguy cơ quyện với nhau, chuyển hoá cho nhau trong một thời kỳ, một giai đoạn, thậm chí trong cùng một thời điểm đã làm cho bức tranh toàn cảnh của một nước Việt Nam đang trên đà phát triển rất phong phú về sắc màu, và do đó cũng có thể gây ra cho chúng ta nhìn nhận các sự vật và hiện tượng có khác nhau. Tất cả những cái đó đang đặt cho Việt Nam trong những năm đổi mới đứng trước một thử thách nghiệt ngã nhất: hoặc là bứt lên mạnh mẽ, tiến kịp bước tiến chung của nhân loại, sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển như quyết tâm chính trị của Đảng ta đã nêu trong Đại hội X, sánh vai với nhiều nước phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới, không bị xếp vào tốp cuối trong bảng tổng sắp sự phát triển trên thế giới; hoặc là chịu cảnh nằm ở dưới cái lằn ranh, dưới cái chỉ giới vùng trũng của sự tăng tiến của thế giới. Từ kinh nghiệm của hơn 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta thấy nguy cơ lớn nhất, nguy cơ bao trùm, nguy cơ của mọi nguy cơ, là: nguy cơ Đảng thoái hóa, biến chất, nguy cơ mất chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, tức là nguy cơ chúng ta trượt khỏi con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Qua hơn 20 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã mạnh lên nhiều. Cái mạnh lên ở đây không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm vào loại cao, mặc dù hiện nay kinh tế toàn cầu đang suy thoái mà nước ta cũng bị chịu ảnh hưởng xấu, tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm; không những ở các chỉ số phát triển khác trong hệ thống tính toán quốc tế, v.v. mà còn là ở trình độ, ở tư duy bắt nhịp kịp với tư duy phát triển của thế giới.

Cái mới trong biểu hiện thời cơ lần này là nước ta đã tạo được cho chính mình cái đà đi lên bền vững hơn, nó có xung lực nội tại ngay từ lực lượng tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ rõ quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển.

Ba yếu tố thời, thế và lực đang đan xen nhau. Thời do thế và lực đưa lại. Thế và lực tác động thúc đẩy thời mau xuất hiện. Chính là vào thời kỳ này trở đi, có thể trong khoảng thập niên tới, nước ta hội đủ nhất cả ba yếu tố thời, thế và lực trên con đường phát triển nhanh và bền vững. Bỏ lỡ thời cơ trong khoảng thời gian này là nước ta tự huỷ bỏ cái thế phát triển.

Thách thức, nguy cơ trong điều kiện mới cũng nằm chính ngay trong cả thời cơ, đặc biệt khi hội nhập quốc tế diễn ra mạnh và Việt Nam nằm ở dòng xoáy của toàn cầu hoá. Hoạt động của nước ta trong môi trường quốc tế sẽ diễn ra trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt, quyết liệt gấp bội so với trước đây, rất có thể mức độ và hệ số rủi ro sẽ rất lớn và dày hơn. Chúng ta chấp nhận vượt qua thách thức, nguy cơ cũng tức là đòi hỏi năng lực tư duy, bản lĩnh chính trị phải có sự nổi trội.

Trên đây là những biểu hiện mới của thách thức, nguy cơ, chủ yếu là nhìn từ bên ngoài. Với tất cả sự tỉnh táo, chúng ta thấy nguy cơ từ bên trong có khi lại lớn hơn nhiều. Đáng lưu ý nhất là nguy cơ Đảng ta vẫn chưa khắc phục được tình trạng suy thoái. Đại hội X năm 2006 đánh giá rằng: "Thoái hoá, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng"7. Từ đó, Đại hội nhấn mạnh như một cảnh tỉnh trong Đảng, tương tự như Đại hội IX: "Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ"8.

Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động của Đảng ta, tại Đại hội X, trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác xây dựng Đảng, có nhận định rằng: “Vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp””9. Chạy ai? Ai chạy? Đó là câu hỏi và là một vấn đề rất nhức nhối ở trong Đảng ta.

 Phải xác định rõ những nguyên nhân và khắc phục các tệ nạn đã xảy ra; xử lý nghiêm minh, không bao che, dung túng cho những kẻ thoái hoá, biến chất. Trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII năm 1999, một loạt biện pháp đã được xác định rất cụ thể. Tựu chung lại, chúng ta thấy có hai loại biện pháp: một là, những biện pháp về giáo dục; hai là, những biện pháp về tổ chức. Hai loại biện pháp này kết hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình đấu tranh chống các hiện tượng thoái hoá, biến chất trong cán bộ, đảng viên.

Đại hội VI đã xác định phải "thi hành những biện pháp có hiệu lực để tiêu diệt các tệ nạn hối lộ, cửa quyền, loại bỏ và nghiêm trị những phần tử biến chất lợi dụng danh nghĩa Đảng và chính quyền để đục khoét của nhân dân, áp bức quần chúng". Đại hội VII đòi hỏi phải "khai trừ khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị và đạo đức, gây chia rẽ, bè phái, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Đưa ra khỏi Đảng bằng những hình thức thích hợp những đảng viên không tha thiết với Đảng, giảm sút ý chí chiến đấu". Đại hội VIII xác định phải chống lại các hiện tượng thoái hoá, biến chất một cách kiên quyết hơn, triệt để hơn: "xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, bất kể là ai, bất kể ở cương vị nào". Các đại hội tiếp theo, đặc biệt là Đại hội X, đã đặc biệt nhấn mạnh những biện pháp nghiêm minh đó. Song, trên thực tế, công tác chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các tiêu cực khác trong toàn xã hội và trong nội bộ Đảng chưa đạt được hiệu quả cần thiết.

Đáng chú ý là tình trạng gia tăng của bệnh quan liêu; nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói thì hay nhưng làm thì dở, nói một đằng, làm một nẻo; thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Hậu quả tai hại của những căn bệnh này đã rõ, nó làm cho nhiều chủ trương, chính sách không phù hợp với thực tế; tình trạng vô trách nhiệm, buông lỏng quản lý xảy ra không ít, thậm chí một số tổ chức đảng bị tê liệt.

Nạn tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa không những không giảm mà nhiều lúc, nhiều nơi diễn ra nghiêm trọng hơn, phức tạp hơn.Đất nước ta đang đứng trước một thử thách, nguy cơ liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã xây dựng trong gần 65 năm nay, chứ không dừng ở mức độ là những thách thức, nguy cơ đó chỉ kìm hãm sự phát triển. Việc tìm mọi cách vượt qua thử thách, đề phòng, ngăn chặn và triệt tiêu nguy cơ cũng là một yêu cầu của nắm thời cơ. Nếu không như thế thì chẳng những thời cơ bị vuột mất mà mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta đã giành được trong hàng chục năm sẽ bị đổ xuống sông xuống biển.

2. Luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát Đảng trong điều kiện mới, kiên quyết khắc phục những tiêu cực trong Đảng

Đảng đang tồn tại và hoạt động ở thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, mang theo những thành tựu to lớn của hơn 20 năm đổi mới, nghĩa là đang đứng trước sự biến động lớn trong bước tiến của nhân loại và của chính bản thân tình hình trong nước.

Vai trò lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có, không phải cứ tự nhận mà được. Đó là kết quả của một quá trình vận động của lịch sử, được thực tế chứng minh là hoàn toàn hợp quy luật. Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng sẽ không thể làm tròn nhiệm vụ, không thể đóng vai trò lãnh đạo được nữa, nếu Đảng bị suy yếu. Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”10. Chính vì vậy, muốn cho Đảng luôn luôn làm tròn trách nhiệm lãnh đạo thì Đảng phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn.

Thật vậy, yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng ngày càng cao, nhất là trong thời kỳ hiện nay. Đảng đứng trước tình hình sau đây:

- Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế còn tiếp tục lâm vào khủng hoảng, các Đảng Cộng sản trên thế giới đang có sự phân hoá. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Đảng Cộng sản đang đứng trước những thử thách.

- Cách mạng khoa học và công nghệ đang và sẽ tiến những bước khổng lồ có ảnh hưởng cực kỳ to lớn tới mọi hoạt động xã hội. Thế giới đang toàn cầu hoá, vòng xoáy toàn cầu hoá làm cho những vấn đề về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản càng đứng trước thử thách lớn chưa từng có.

- Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều vấn đề đặt ra cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn chưa có lời giải đáp, trong đó có cả những vấn đề cơ bản về Đảng. Tình hình thực tế có vô vàn những vấn đề mới, trong khi đó những vấn đề lý luận lại cần được bổ sung, làm sáng tỏ.

- Trong Đảng vẫn còn nhiều tiêu cực, thậm chí có những mặt rất nghiêm trọng.

Tất cả những biểu hiện trên đây đang và sẽ đặt ra cho Đảng những thử thách lớn chưa từng có: việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn vốn là công việc thường xuyên của bản thân Đảng thì trong sự nghiệp đổi mới đất nước, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng càng cần tiến hành một cách quyết liệt hơn. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh bày tỏ mong muốn rằng, sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi, "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng". Vậy, cũng có thể nói rằng, việc cần làm ngay hiện nay là phải càng chú trọng đặc biệt tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Từ kinh nghiệm của những năm xây dựng và chỉnh đốn Đảng thời kỳ đổi mới, chúng ta thấy rằng, công tác kiểm tra, giám sát có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những thành tựu rất quan trọng đã đạt được, do tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường cùng sự thiếu thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nên một bộ phận cán bộ, đảng viên và cả một số tổ chức đảng đã bộc lộ những mặt yếu kém. Tổ chức đảng ở nhiều nơi chấp hành các nguyên tắc của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ chưa nghiêm, sinh hoạt lỏng lẻo; đấu tranh tự phê bình và phê bình giảm sút, sức chiến đấu yếu dẫn đến vi phạm kỷ luật. Nhiều tổ chức cơ sở và chi bộ không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ cơ sở, cá biệt còn tê liệt, mất sức chiến đấu. Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, đảng viên thực hiện một cách chiếu lệ. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa coi trọng công tác kiểm tra, coi công tác này là của uỷ ban kiểm tra chứ không phải của chính bản thân cấp uỷ.

Vẫn còn tình trạng nói mà không làm, ra nghị quyết mà không thực hiện hoặc thực hiện nửa vời. Việc theo dõi kiểm tra, đôn đốc triển khai nghị quyết làm chưa tốt; việc xử lý sai phạm trong thực hiện nghị quyết chưa nghiêm. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, tính đảng yếu, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại tu dưỡng, rèn luyện, chạy theo lối sống thực dụng, vị kỷ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống; tình trạng cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, mất đoàn kết của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm giảm sút uy tín của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân, đang trở thành một trong những nguy cơ lớn nhất hiện nay. Do cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa tạo được chuyển biến cơ bản nên có thể nói "nguy cơ tham nhũng, quan liêu" đã nổi lên như là một mối đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Từ tình hình trên, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn để xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhất là khi chúng ta tiếp tục thực hiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cả về chiều rộng và chiều sâu, chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, trở ngại, thách thức, nguy cơ mới trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền. Để đạt được mục tiêu nói trên, nhất thiết phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát là một nội dung quan trọng cần được đẩy mạnh.

Từ trước Đại hội X của Đảng, các cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ yếu thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra còn chức năng, nhiệm vụ giám sát trong Điều lệ Đảng chỉ quy định "Đảng chịu sự giám sát của nhân dân", chưa quy định cụ thể việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên. Nhưng trong thực tế, các cấp uỷ (kể cả Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư), tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và đảng viên đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát. Riêng uỷ ban kiểm tra các cấp thì việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát với phạm vi, đối tượng, nội dung còn hẹp. Tuy nhiên, nhiệm vụ này chưa được xác định một cách rõ ràng và chưa được thực hiện theo một chương trình, kế hoạch cũng như quy trình, phương pháp cụ thể và đặc biệt chưa bố trí lực lượng tiến hành thường xuyên.

Giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên là vấn đề cấp bách hiện nay. Nó xuất phát từ đòi hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm cho Đảng ta, trước hết là các cơ quan lãnh đạo và những người lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị, vững vàng về đường lối, không chệch hướng xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất cách mạng tốt, ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống. Đây là một vấn đề cơ bản, cấp bách hiện nay, nhất là sau khi Đại hội X của Đảng khẳng định giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng và giao chức năng, nhiệm vụ giám sát trong Đảng cho cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp.

Công tác giám sát giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Việc giám sát đảng viên và tổ chức đảng được thể hiện trong những quy định như: mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng; là nguyên tắc lãnh đạo tập thể nhằm hạn chế tình trạng cá nhân độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền; tăng cường vai trò giám sát của quần chúng nhân dân và tập thể đối với cá nhân từng thành viên của cơ quan lãnh đạo; là phát huy dân chủ, tăng cường việc kiểm tra từ dưới lên...

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh: là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam có quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị của Đảng do nhân dân giao phó để Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lực chính trị của Đảng được hình thành là do đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; do uy tín của Đảng; do Đảng có cơ sở xã hội sâu rộng, gắn bó mật thiết với nhân dân và do những thành quả cách mạng mà Đảng đã mang lại cho nhân dân. Vì vậy, có thể nói: giám sát Đảng chính là giám sát quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực chính trị được thực thi đúng hướng, có hiệu quả, ngăn chặn thoái hoá, biến chất, chống đặc quyền, đặc lợi. Đây là yêu cầu khách quan để Đảng tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giai đoạn mới. Tổ chức đảng phải được tăng cường giám sát chặt chẽ, đảng viên giữ quyền hành, chức vụ càng lớn càng phải được giám sát nghiêm ngặt, tiến hành giám sát đối với quyền lực, phòng ngừa lạm dụng quyền lực, thực hiện lấy quyền lực chế ước quyền lực.

Phải nhận thức đúng về tầm quan trọng đặc biệt của công tác giám sát trong Đảng, bởi vì nếu nhận thức và thực hiện tốt thì Đảng ta mới thực sự lớn mạnh, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức hời hợt, qua loa, đại khái, quán triệt một cách chiếu lệ, đó là tình trạng thường thấy của không ít tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Từ nhận thức không tốt như vậy dẫn đến hoạch định chương trình, triển khai thực hiện một cách máy móc, sao chép nghị quyết của cấp trên, không kiên quyết chỉ đạo thực hiện.

Cần làm rõ và nhận thức đúng, đầy đủ về hiệu quả của công tác giám sát trong Đảng. Khi nói đến hiệu quả, người ta thường chú tâm đến hiệu quả kinh tế, nghĩa là so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Nhưng hiệu quả của công tác giám sát trong Đảng không chỉ đơn thuần và cũng không thể định lượng giản đơn như vậy, bởi kết quả của công tác giám sát trong Đảng tác động đến tất cả các lĩnh vực hoạt động nhằm phục vụ một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi giai đoạn cách mạng. Hiệu quả công tác giám sát trong Đảng có thể được hiểu là những kết quả giám sát đã ảnh hưởng tích cực đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng Đảng trong từng giai đoạn nhất định hoặc tác động tích cực, trực tiếp đến từng tổ chức đảng, đảng viên qua mỗi cuộc giám sát. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả của công tác giám sát trong Đảng phải chú trọng đến hiệu quả chính trị - xã hội.

Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng phải xác định công tác giám sát là nhiệm vụ trực tiếp và thường xuyên, gắn liền với sự lãnh đạo của mình. Điều lệ Đảng khóa X của Đảng đã chỉ rõ: "Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng... Các cấp uỷ đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng"11. Đây là “cơ sở pháp lý” cao nhất để các tổ chức đảng, cấp uỷ lãnh đạo công tác giám sát và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giám sát của đảng bộ mình.

Cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Có thể nói rằng, toàn bộ những vấn đề về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vẫn đang cần được nghiên cứu tổng kết: Vấn đề quy luật phát triển của Đảng; các nguyên tắc xây dựng Đảng; vấn đề Đảng cầm quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong điều kiện toàn cầu hoá; trong điều kiện phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang khủng hoảng nghiêm trọng...

Trên thực tế, sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam là một minh chứng cho sự vận dụng và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản. Việt Nam vốn là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân ít về số lượng, công nhân đại công nghiệp càng ít. Song, ở Việt Nam vẫn có sự ra đời của một Đảng Cộng sản vào đầu năm 1930 - kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sau đó, đến giai đoạn cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nằm trong hoàn cảnh đất nước có nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Việc xây dựng một Đảng Cộng sản như thế chưa có sự chỉ dẫn trong di sản lý luận Mác - Lênin.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là Đảng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn những vấn đề về Đảng và công tác xây dựng Đảng. Có như thế chúng ta mới làm cho Đảng mạnh hơn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đảng không bị tụt hậu với thời cuộc, làm cho Đảng luôn luôn ở tầm cao của thời cuộc.

--------------------

* Vụ trưởng Vụ Quản lý khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VISđd, tr.124.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.21.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.126.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.47.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.53, tr.198.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộiSđd, tr.6.

7, 8, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XSđd, tr. 263-264, 264, 263.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t.12, tr.557-558.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.44.

 Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam